Bản án 16/2020/HS-ST ngày 11/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 16/2020/HS-ST NGÀY 11/03/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 3 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 21/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 02 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 16/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Dương Nguyễn Phước A (CL), sinh năm 1996 tại tỉnh Bến Tre; Nơi cư trú: Khu phố A, Phường B, thành phố BT, tỉnh Bến Tre; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 9/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương Anh K, sinh năm 1970 và bà Nguyễn Kim H, sinh năm 1969; Vợ, con: chưa có; Tiền án: Không;

Tiền sự: + Ngày 20/4/2016, bị Công an Phường B, thành phố BT ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái pháp chất ma túy” (Quyết định số 69/QĐ-XPHC).

+ Ngày 09/02/2018, bị Ủy ban nhân dân Phường B, thành phố BT ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thời hạn 03 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (Quyết định số 20/QĐ-UBND).

Bị cáo bị bắt tạm từ ngày 20/12/2019 đến nay. (Có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bùi Thế N, sinh năm 1985. Có mặt. Nơi cư trú: Khu phố 3, phường PT, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

* Người làm chứng: Trần Văn L, sinh năm 1961. Vắng mặt. Nơi cư trú: Khu phố BL, Phường C, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ ngày 28/11/2019, bị cáo A dung điện thoại Iphone gọi cho một người tên Q (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) để hỏi mua 3.000.000 đồng ma túy để sử dụng. Bị cáo A thực hiện việc giao tiền và nhận ma túy tại khu vực vòng xoay phường C, thành phố BT. Sau khi mua được ma túy, bị cáo đem về phòng trọ cất giấu. Đến khoảng 01 giờ ngày 29/11/2019, bị cáo A lấy túi ma túy cầm trên tay trái rồi điều khiển xe mô tô biển số 71B2-892.00 để tìm nơi sử dụng cùng với bạn. Tổ tuần tra Công an tỉnh Bến Tre đang tuần tra trên đường Đồng Văn C đến đoạn trước nhà số 17A thuộc khu phố BK, phường C, thành phố BT thì phát hiện bị cáo A đang điều khiển xe mô tô biển số 71B2- 892.00, chạy ngược chiều, không đội mũ bảo hiểm nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Qua kiểm tra lực lượng Công an phát hiện cách xe mô tô của bị cáo A sử dụng khoảng 40cm có 01 túi ni lon màu trắng hàn kín ba phía, phía còn lại có rãnh khép và vạch màu xanh, bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy và bị cáo A khai nhận là ma túy của bị cáo cất giấu để sử dụng nên tiến hành lập biên bản sự việc, thu giữ tang vật và bàn giao cho lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố BT để xử lý theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ:

- 01 túi ni lon màu trắng hàn kín ba phía, phía còn lại có rãnh khép và vạch màu xanh, bên trong túi ni lon có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy (Sau khi thu giữ được niêm phong trong phong bì có các chữ ký ghi tên: Nguyễn Hải Đăng K, Trần Văn D, Trần Văn L, Dương Nguyễn Phước A, Võ Huỳnh P và hình dấu tròn màu đỏ của Công an phường C, thành phố BT).

- 01 xe mô tô biển số 71B2-892.00.

- 01 điện thoại di động Iphone, màu vàng, số IMEI: 355876065965380.

Qua làm việc, bị cáo A khai nhận: 01 túi ni lon có chứa tinh thể màu trắng mà lực lượng Công an thu giữ nêu trên là ma túy của bị cáo A.

Theo Bản kết luận giám định số 146/2019/GĐMT ngày 02/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận: Tinh thể màu trắng đựng trong 01 túi nilon được niêm phong trong phong bì gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, khối lượng 1,5454gam Tại bản cáo trạng số 22/CT-VKSTPBT ngày 19 tháng 02 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã truy tố bị cáo Anh về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị:

+ Về hình phạt chính: Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo A từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

+ Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung;

+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng các Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì số 146/2019 có chữ ký ghi tên Phan Nghĩa T, Phan Trung T và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre bên trong chứa mẫu vật còn lại sau giám định và tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động Iphone, màu vàng, số IMEI: 355876065965380.

+ Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre đã trao trả cho anh Bùi Thế Nam 01 xe mô tô biển số 71B2 - 892.00 và ông Nam không yêu cầu bị cáo bồi thường.

+ Đối với đối tượng tên Q do không rõ họ tên địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa làm việc được, khi làm việc được sẽ xử lý sau.

- Bị cáo A khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre đã truy tố. Bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và không khiếu nại gì đối với các hành vi và quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bùi Thế N trình bày: nghề nghiệp của ông là mua bán xe gắn máy, ông có cho bị cáo Phước A thuê 01 xe mô tô biển số 71B2 - 892.00 để bị cáo phục vụ cho việc đi lại với giá 200.000 đồng/ngày. Ông hoàn toàn không biết Phước A dùng xe này để đi mua ma túy sử dụng. Hiện nay ông đã nhận lại chiếc xe trên và không yêu cầu bị cáo bồi thường chi phí gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Bến Tre, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Người làm chứng đã được Tòa án tống đạt hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, đã có lời khai đầy đủ, rõ ràng, sự vắng mặt không làm ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người làm chứng.

[2] Bị cáo A có lời khai tại phiên tòa phù hợp với biên bản sự việc ngày 29/11/2019, kết quả giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra, có đủ cơ sở xác định: Bị cáo A đã có hành vi cất giấu trái phép 1,5454 gam ma túy, loại Ketamine để sử dụng.

[3] Bị cáo A là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận biết việc cất giấu ma túy là bị pháp luật cấm nhưng bị cáo vẫn mua và cất giấu ma túy để sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Hành vi này của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây tác động xấu đến tình hình an ninh trật tự, làm phát sinh nguy cơ xảy ra các tội phạm và tệ nạn khác, gây tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân.

[5] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân, bị cáo Phước A không có tiền án nhưng hiện có 02 tiền sự.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo Phước A được hưởng là thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi bị cáo gây ra, xét thấy việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân lương thiện, có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung.

[6] Hình phạt bổ sung: không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo do bị cáo không có tài sản và thu nhập ổn định.

[7] Lời phát biểu luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, điều luật áp dụng, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo Anh là phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 phong bì số 146/2019 chứa mẫu ma túy còn lại sau giám định là chất Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động Iphone, màu vàng, số IMEI: 355876065965380 là công cụ phương tiện để bị cáo Phước A liên hệ mua ma túy và hiện tại còn giá trị sử dụng nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với 01 xe mô tô biển số 71B2 - 892.00 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre đã trao trả cho anh Bùi Thế N nên ghi nhận.

[9] Về trách nhiệm dân sự: do ông Bùi Thế N đã nhận lại xe mô tô biển số 71B2- 892.00 và không yêu cầu bị cáo bồi thường nên ghi nhận.

[10] Đối với đối tượng tên Q do không rõ họ tên địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa làm việc được, khi làm việc được sẽ xử lý sau.

[11] Về án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Anh phải nộp theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Dương Nguyễn Phước A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo: Dương Nguyễn Phước A 01 (một) năm tù;

Thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2019.

2. Về xử lý vật chứng: áp dụng các Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì ký hiệu số 146/2019 có chữ ký ghi tên Phan Nghĩa T, Phan Trung T và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre bên trong chứa mẫu vật còn lại sau giám định;

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động Iphone, màu vàng, số IMEI: 355876065965380.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/3/2020 hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến Tre đang quản lý).

3. Về trách nhiệm dân sự: áp dụng các Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật Dân sự năm 2015:

Ghi nhận ông Bùi Thế N không yêu cầu bị cáo Dương Nguyễn Phước A bồi thường thiệt hại.

4. Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Dương Nguyễn Phước A phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 16/2020/HS-ST ngày 11/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:16/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;