Bản án 16/2020/HSST ngày 08/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI NƯỚC, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 16/2020/HSST NGÀY 08/06/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong các ngày 05 và 08 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 06/2020/HSST ngày 13 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử số: 14/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn Tr - sinh năm: 1995; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: ấp C N, thị trấn C N, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Trần Văn S, sinh năm 1967, con bà Ngô Thị D, sinh năm 1975; bị cáo chưa có vợ con; anh, chị, em ruột có 03 người, lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 2005; Tiền án: có 01, vào ngày 30/11/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau xử phạt 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 và đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 29/01/2016 nhưng chưa được xóa án tích; tiền sự: không; Ngày 17/02/2020 bị cáo bị bắt theo Quyết định truy nã số 02 ngày 20/5/2017, sau đó bị tạm giữ ngày 16/02/2020 và chuyển tạm giam đến nay.

- Bị hại:

1/. Anh Lê Minh Nh – sinh năm 1995 (có mặt).

Địa chỉ cư trú: ấp B T, xã Đ Th, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

2/. Ông Nguyễn Minh T – sinh năm 1983 (vắng mặt).

Địa chỉ cư trú: ấp C n, thị trấn C N, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

- Người có liên quan:

1/. Ông Trần Văn L – sinh năm 1997 (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: ấp Ng Q, thị trấn C N, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

2/. Ông Lê Văn M – sinh năm 1963 (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: ấp B Tr, xã Đ Th, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ ngày 18/12/2016, lực lượng tuần tra Công an thị trấn Cái Nước phát hiện các đối tượng gồm: Trần Văn Tr, Trương Đức L (tên gọi khác là Tuấn) và Trần Văn L điều khiển phương tiện xe môtô hiệu Sindo biển số kiểm soát 51K4-2033 có biểu hiện nghi vấn, sau khi kiểm tra phát hiện chiếc xe môtô trên là của anh Nguyễn Minh T bị mất trộm vào ngày 14/12/2016. Trên đường đi đến trụ sở công an để tiến hành làm việc, L đã nhảy xuống xe trốn thoát. Tr đã thừa nhận cùng với L thực hiện 02 vụ trộm cắp xe mô tô như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 22 giờ ngày 14/12/2016, trên đường đi uống cà phê về, L rủ Tr đi tìm tài sản trộm bán lấy tiền chia nhau tiêu xài thì Tr đồng ý; cả hai đi bộ đến nhà anh Nguyễn Minh T ở ấp Cái Nước, thị trấn Cái Nước thì L nhìn thấy 01 xe mô tô hiệu Sindo biển số kiểm soát 69F4-7691 đậu bên hiên nhà không có người trông coi, xe không có chìa khóa. L kêu Tr đứng ở ngoài canh đường còn L đi vào dắt xe ra ngoài đường, dẫn bộ được một đoạn thì L lên xe điều khiển chở Tr đến căn nhà trống cạnh bên nhà của Tr cất giấu. Đến ngày 15/12/2016, Tr đã tháo bỏ biển số 69F4-7691 và thay vào biển số 51K4-2033 do Tr mua lại của một người mua bán phế liệu để đem đi tiêu thụ nhằm tránh bị phát hiện.

Vụ thứ hai: Vào đêm ngày 15/12/2016, L rủ Tr đi bộ ra khu vực chợ Cái Nước thuộc khóm 1, thị trấn Cái Nước uống cà phê. Sau đó, cả hai đi bộ đến tiệm chơi game chờ đến khuya để đi tìm tài sản lấy trộm, vì chiếc xe mô tô trộm được đêm trước đã cũ bán không được bao nhiêu tiền. Đến khoảng 02 giờ ngày 16/12/2016, cả hai đến nhà ông Lê Văn M ở ấp Bào Tròn, xã Đông Thới, huyện Cái Nước thì thấy nhà ông M có tài sản, L kêu Tr đứng cách nhà ông M khoảng 50 mét để canh đường, còn L đi vào nhà ông M dùng tay cạy cửa nhà sau để vào nhà.

Sau khi vào nhà, L đã lấy trộm 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave alpha biển số kiểm soát 69E1-192.20 của anh Lê Minh Nh (con ruột ông M) dẫn xe ra lộ. L điều khiển xe vừa trộm được chở Tr về nhà Tr, sau đó L đem xe đi cất giấu. Đến khoảng 22 giờ ngày 16/12/2016, L điều khiển xe trộm được chở Tr ra thành phố Cà Mau bán xe với số tiền 3.000.000 đồng, L chia cho Tr 1.000.000 đồng, số tiền còn lại L giữ tiêu xài cá nhân. Tại phiên tòa, bị hại Nguyễn Minh Nh yêu cầu bị cáo Tr bồi thường 01 xe mô tô bị mất có giá trị theo kết luận định giá tài sản là 14.013.000 đồng, bị cáo Tr đồng ý bồi thường.

Tại kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐGTS ngày 19/01/2017 của Hội đồng định giá tài sản huyện Cái Nước kết luận:

- 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Wave alpha biển số kiểm soát 69E1 – 192.20 có màu sơn bạc trắng đen, giá trị còn lại là 14.013.000 đồng;

- 01 (một) xe mô tô hiệu Sindo biển số kiểm soát 69F4 – 7691 có màu sơn nâu, giá trị còn lại là 3.625.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản bị mất trộm là 17.638.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 11/CT - VKS ngày 13 tháng 3 năm 2020, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau đã truy tố bị cáo Trần Văn Tr về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt bị cáoTrần Văn Tr từ 09 tháng đến 01năm tù.

Về vật chứng của vụ án gồm: 01 (một) biển số xe 51K4 – 2033, hiện đang bị tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Nước, đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Về trách nhiệm dân sự:

- Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Wave alpha biển số kiểm soát 69E1 – 192.20, sau khi bị mất không thu hồi lại được, phía bị cáo và bị hại Lê Minh Nh thỏa thuận bị cáo Tr có nghĩa vụ bồi thường cho anh Nh số tiền 14.013.000 đồng nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Sindo biển số kiểm soát 69F4 – 7691 hiện đã trả lại cho bị hại ông Nguyễn Minh T, ông T không có yêu cầu gì nên không đề cập xem xét.

- Đối với số tiền 750.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia mua 400.000 đồng không rõ đời máy, ông M khai bị mất cùng với xe mô tô Wave alpha biển số 69E1 – 192.20, trong quá trình điều tra ông M không có yêu cầu nên không đề cập xem xét.

Trong lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo có trong hồ sơ vụ án;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cái Nước, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Nước, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn Tr khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Trong các ngày 14/12/2016 và 16/12/2016, bị cáo Trần Văn Tr cùng Trương Đức L (Tuấn) đã L dụng lúc đêm tối, không có người trông coi tài sản nên Tr đã canh đường cho L lén lút lấy trộm của ông Nguyễn Minh T 01 (một) xe mô tô hiệu Sindo biển số kiểm soát 69F4 – 7691 và của anh Lê Minh Nh 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Wave alpha biển số kiểm soát 69E1 – 192.20. Sau đó, Tr và L đem bán tài sản 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Wave alpha biển số kiểm soát 69E1 – 192.20 được 3.000.000 đồng, chia cho Tr 1.000.000 đồng, còn lại 2.000.000 đồng L cất giữ. Tổng giá trị tài sản bị cáo và L lấy trộm là 17.638.000 đồng.

Trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền hở hữu về tài sản của người khác một cách trái pháp luật. Bị cáo đã phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo không chỉ vi phạm pháp luật mà còn làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự xã hội tại địa phương; gây T lý lo âu cho người dân trong việc quản lý tài sản của mình.

Từ những phân tích nêu trên, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Trần Văn Tr phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội thuộc Tr hợp phạm tội 02 lần trở lên và tái phạm theo quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội với vai trò giúp sức. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 cho bị cáo. Tuy nhiên, tình hình trộm cắp trên địa bàn huyện Cái Nước trong thời gian qua diễn biến phức tạp và đang có chiều hướng gia tăng, hành vi của bị cáo là không tôn trọng pháp luật, do đó cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục cải tạo bị cáo thành người tốt và nhằm mục đích răn đe cho toàn xã hội.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Nước là phù hợp nên chấp nhận.

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

- 01 (một) biển số xe 51K4 – 2033, hiện đang bị tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Nước xét thấy không rõ nguồn gốc và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Wave alpha biển số kiểm soát 69E1 – 192.20, sau khi bị mất không thu hồi lại được, tại phiên tòa phía bị cáo và bị hại Lê Minh Nh thỏa thuận là bị cáo Tr có nghĩa vụ bồi thường cho anh Nh số tiền 14.013.000 đồng, xét thấy là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Sindo biển số kiểm soát 69F4 – 7691 hiện đã trả lại cho bị hại ông Nguyễn Minh T, ông T không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

Đối với Trương Đức L đã bỏ trốn hiện chưa làm việc được và 02 thanh niên mua xe trộm ở thành phố Cà Mau không biết họ tên, địa chỉ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cái Nước tách ra khi nào làm việc được sẽ xử lý sau là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với Trần Văn L có đi chung xe với Tr và L, tuy nhiên xét thấy không liên quan đến vụ án nên không không đề cập xử lý.

Đối với số tiền 750.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia mua 400.000 đồng không rõ đời máy, ông M khai bị mất cùng với xe mô tô Wave alpha biển số 69E1 – 192.20, trong quá trình điều tra ông M không chứng minh được và không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 700.000 đồng (làm tròn số) theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015;

Căn cứ: Điều 106, khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn Tr phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn Tr 01 (một) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 16/02/2020.

Bị cáo Trần Văn Tr có nghĩa vụ bồi thường cho bị hại Lê Minh Nh số tiền 14.013.000 đồng (Mười bốn triệu không trăm mười ba nghìn đồng).

Kể từ ngày anh Lê Minh Nh có đơn yêu cầu thi hành khoản tiền nêu trên mà bị cáo chậm thi hành thì phải chịu lãi đối với số tiền còn phải thi hành theo quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) biển số xe 51K4 – 2033, hiện đang bị tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Nước theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 21/4/2017.

Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Trần Văn Tr phải chịu 200.000 đồng. Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Buộc bị cáo Trần Văn Tr phải chịu 700.000 đồng (làm tròn số).

Án xử sơ thẩm công khai bị cáo Trần Văn Tr, bị hại Lê Minh Nh có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại Nguyễn Minh T, người liên quan Trần Văn L và Lê Văn M có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

289
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 16/2020/HSST ngày 08/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:16/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Nước - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;