Bản án 16/2019/HS-ST ngày 26/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 16/2019/HS-ST NGÀY 26/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 20/2018/TLST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18 ngày 12 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Đ sinh năm 1987 tại Quảng Ninh. Nơi cư trú: Thôn 11, xã S, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th và bà Phạm Thị M; chưa có vợ con. Tiền án, tiền sự: không. Bị bắt tạm giữ từ ngày 17/11/2018 đến ngày 22/11/2018 chuyển tạm giam. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 15 phút ngày 17/11/2018, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Thủy Nguyên và Công an xã Tân Dương, huyện Thủy Nguyên, làm nhiệm vụ tại thôn 4b, xã Tân Dương, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng phát hiện Nguyễn Văn Đ đang điều khiển xe mô tô BKS 14P4-3744 chở Cao Văn M, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh có biểu hiện nghi vấn cất giấu trái phép chất ma túy. Tiến hành kiểm tra, lực lượng Công an đã thu giữ tại lòng mũ bảo hiểm dạng nửa đầu màu da cam của Nguyễn Văn Đ có 01 túi nylon kích thước 5cm x 7cm đựng 01 túi nylon kích thước 4cm x 6cm bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy. Tổ công tác đã đưa Đ, M cùng vật chứng về trụ sở Công an xã Tân Dương lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Tại bản Kết luận giám định số 611/KLGĐ ngày 20/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng trong 01 túi nylon Công an thu giữ của Nguyễn Văn Đ là ma túy, có khối lượng 3,5976 gam, là loại Heroin.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Đ khai: Khoảng 14 giờ 30 ngày 17/11/2018, Nguyễn Văn Đ sang nhà Lê Đình C, sinh năm 1986, ĐKTT: phường P, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh hỏi mượn xe mô tô biển kiểm soát 14P4- 3744 nhưng không nói cho C biết mục đích làm phương tiện sang đường tàu nội thành Hải Phòng mua ma túy về sử dụng. C đồng ý cho mượn xe, Đ điều khiển xe mô tô một mình sang đường tàu Hải Phòng. Trên đường đi đến phường P, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh Đ gặp Cao Văn M. Đ rủ M sang Hải Phòng chơi, M đồng ý. Đ điều khiển xe mô tô chở M sang khu vực đường tàu nội thành Hải Phòng thì dừng xe. Đ bảo M đứng ngoài trông xe còn mình đi vào trong khu dân cư có chút việc. Đ đi vào trong khoảng 500m thì gặp 01 người đàn ông không quen biết đang bán ma túy cho đối tượng nghiện. Đ đưa cho người đàn ông 2.500.000 đồng hỏi mua ma túy Heroin. Người đàn ông nhận tiền và đưa lại cho Đ 01 túi nylon kích thước 5cmx7cm đựng 01 túi nylon kích thước 4cmx6cm bên trong chứa chất bột màu trắng. Đ nhận ma túy và cất vào lòng mũ bảo hiểm màu cam rồi đội lên đầu đi ra chỗ M đang đợi. Đ điều khiển xe mô tô chở M về Quảng Ninh. Khi đến khu vực cầu Bính, Đ bảo M mình vừa mua được ma túy, rủ M cùng tìm chỗ sử dụng, M đồng ý. Đ dừng xe tại bãi đất trống gần chân cầu Bính, lấy gói ma túy vừa mua được san cho M một ít ma túy, 01 xi lanh và 01 lọ nước cất để M tự sử dụng. Đ cũng lấy một ít ma túy rồi dùng xi lanh chích ma túy trộn nước cất vào cơ thể. Số ma túy còn lại Đ cất vào lòng mũ bảo hiểm đang đội. Sau khi sử dụng xong Đ điều khiển xe chở M về, đến khu vực thôn 4b, xã Tân Dương thì bị lực lượng công an bắt quả tang.

Bản cáo trạng số 20/CT-VKS ngày 05 tháng 3 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên thành phố Hải Phòng đã truy tố Nguyễn Văn Đ về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo Điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên luận tội và đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung Cáo trạng đã truy tố: Về hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 30 năm đến 36 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về vật chứng của vụ án đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo pháp luật.

Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghỉ nghị án, bị cáo trình bày nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm đã thực hiện và mong muốn nhận được sự khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thủy Nguyên và Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự tuy nhiên đã cất giữ trái phép chất ma túy, có khối lượng 3,5976 gam, là loại Heroin để sử dụng cho bản thân bị Công an phát hiện bắt quả tang ngày 17/11/2018 đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, Do đó hành vi phạm tội này của bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, vi phạm các chính sách pháp luật về phòng chống ma túy, tác động xấu đến kinh tế, xã hội, an ninh trật tự, đạo đức, lối sống, văn hóa, hạnh phúc gia đình và sức khỏe của người khác. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt: Với phân tích trên, cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn và xử phạt bị cáo với mức án trên mức khởi điểm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp để cải tạo và giáo dục bị cáo. Tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, nhưng bị cáo không có tài sản riêng, không có khả năng thi hành nên không phạt tiền bị cáo.

[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng: 01 phong bì niêm phong chứa số ma túy còn lại sau giám định và 01 mũ bảo hiểm màu cam là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Điểm s Khoản 1 Điều 5, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn Đ 36 tháng tù về tội „tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 17 tháng 11 năm 2018.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định số 611/2018/PC09 và 01 mũ bảo hiểm màu cam đã qua sử dụng(Chi tiết tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22 tháng 02 năm 2019).

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 16/2019/HS-ST ngày 26/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:16/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;