Bản án 16/2019/HSST ngày 25/04/2019 về tội môi giới mại dâm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH THUỶ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 16/2019/HSST NGÀY 25/04/2019 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Trong ngày 25 tháng 4 năm 2019. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2019/TLST- HS ngày 03 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Đinh Thị Minh X (tên gọi khác: H); sinh ngày: 05/8/1987 tại thôn L, xã M, huyện B, thành phố H; Nơi cư trú: thôn L, xã M, huyện B, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Mường; giới tính: nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Trọng T1 (đã chết) và bà Quyết Thị T2; có chồng Phạm Lương T3 (Đã chết); tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ từ ngày 12/01/2019 đến ngày 17/01/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn. Hiện bị cáo tại ngoại tại xã M, huyện B, TP H. (Có mặt)

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

- Anh Nguyễn Tiến D - Sinh năm 1977, địa chỉ Khu 2, xã T, huyện T, tỉnh T (Vắng mặt).

- Anh Nguyễn Hà T - Sinh năm 1973, địa chỉ Khu 6, xã T, huyện T, tỉnh T (Vắngmặt).

- Anh Nguyễn Tiến S - Sinh năm 1992, địa chỉ Khu 10 xã P, huyện T, tỉnh T. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 30 phút ngày 12/01/2019, tại nhà nghỉ L thuộc khu P, thị trấn T, huyện T, Công an huyện Thanh Thủy phối hợp với Công an thị trấn Thanh Thuỷ tiến hành kiểm tra, lập biên bản vi phạm hành chính bốn đối tượng gồm Nguyễn Tiến D - Sinh năm 1977, ở khu 2, xã T, huyện T, Đinh Thị Minh X – Sinh năm 1987, ở thôn L, xã M, huyện B, thành phố H, Nguyễn Văn Ch– Sinh năm 1973, ở khu 6, xã T, huyện T và Vũ Thị P – Sinh năm 1991, ở Đội 1, thôn B, xã H, huyện B, tỉnh H đang có hành vi mua bán dâm tại phòng 301 và 302. Quá trình kiểm tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thủy thu giữ tại kệ để đồ cạnh giường trong phòng 301 gồm: số tiền 1.300.000 đồng, 01 bao cao su nhãn hiệu Medevice 3s chưa qua sử dụng, 01 bao cao su nhãn hiệu Toshiro chưa qua sử dụng, 01 điện thoại OPPO màu đỏ, đã cũ lắp hai sim số 0967.487.296 và 0385.509.xxx, 01 điện thoại nhãn hiệu F201 vỏ màu xanh, đã cũ lắp sim số 0944.559.xxx Thu giữ tại kệ để đồ phòng 302 gồm: 01 điện thoại di động OPPO màu trắng đã cũ lắp sim số 0354.166.xxx, 01 điện thoại Nokia 230 lắp sim số 0945.479.xxx, 01 bao cao su nhãn hiệu Medevice 3s chưa qua sử dụng, 01 bao cao su nhãn hiệu Toshiro chưa qua sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh Thủy đã thi hành Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Đinh Thị Minh X. Quá trình thi hành Lệnh giữ người, Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Thủy tạm giữ 01 xe mô tô không biển kiểm soát nhãn hiệu Honda Lead màu đỏ-nâu-bạc, 01 ví da nữ màu tím bên trong có số tiền 1.100.000 đồng và 01 thẻ căn cước công dân số 001187015xxx của Đinh Thị Minh X. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thủy đã đưa các đối tượng cùng toàn bộ tang vật về trụ sở Công an huyện để làm rõ sự việc. Tại Cơ quan điều tra, nội dung vụ án được xác định như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 12/01/2019, do có nhu cầu mua dâm nên Nguyễn Tiến D và Nguyễn Hà T (tên thật của Nguyễn Văn Ch), cùng ở xã T, huyện T đến nhà nghỉ L thuộc khu P, thị trấn T để gọi gái bán dâm đến mua dâm. Khi đi, T đưa cho D số tiền 1.000.000đ để D thanh toán tiền mua dâm. Khi đến nơi, D và T thuê 2 phòng nghỉ, D ở phòng 301 còn T ở phòng 302. Sau đó D gọi điện thoại cho H (sau này biết tên thật là Đinh Thị Minh X – Sinh năm 1987, ở thôn L, xã M, huyện B, thành phố H) đến bán dâm cho D tại phòng 301 nhà nghỉ L. Một lúc sau X điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead không biển kiểm soát đến nhà nghỉ L để bán dâm cho D. Khi đến nơi, X gặp lễ tân nhà nghỉ là anh Nguyễn Tiến S - Sinh năm 1992, ở Khu 10 xã P, huyện T xin của anh S 04 bao cao su và nói với anh S lên phòng 301 để gặp bạn. Sau đó, X lên phòng 301 thì gặp T và D. Tại đây, D và X thoả thuận với nhau số tiền mua dâm là 300.000đ thì X đồng ý và nhận số tiền 300.000đ của D. Thấy vậy, T bảo X gọi giúp T 01 gái bán dâm sang phòng 302, T thoả thuận sẽ trả cho X số tiền 700.000đ đến 800.000đ. X đồng ý và để số tiền 300.000đ D vừa đưa lên kệ kê gần giường rồi bảo T, D đợi, còn X đi gọi gái bán dâm cho T. Thấy X nhiệt tình nên T nói với D lát nữa X về thì trả cho X số tiền 1.000.000đ rồi T đi về phòng 302 nằm đợi. X điều khiển xe mô tô đến nhà nghỉ F ở khu 3, thị trấn T gặp Vũ Thị P - Sinh năm 1991, ở Đội 1, thôn B, xã H, huyện B, tỉnh H và bảo “Mày đi ra đây với chị”, (P hiểu là đi bán dâm cho khách) thì P đồng ý. Sau đó X đưa P đến nhà nghỉ L đưa cho P 02 bao cao su rồi bảo P lên phòng 302 bán dâm cho khách. Còn X vào phòng 301 nói với D là đã đưa gái đến bán dâm cho T và nhận số tiền 1.000.000đ của D để lên kệ tủ gần giường cùng với 300.000đ nhận trước đó. Sau đó, X nhắn tin cho P là “Anh cho 500 đây rồi xong đi ăn cùng anh đấy tí nhé” thì P trả lời “Thế nếu bo có lấy không chị”. X trả lời “Tuỳ nếu cho thì lấy còn đừng xin”. Khi các đối tượng D, X đang thực hiện hành vi mua bán dâm ở phòng 301 và T, P đang thực hiện hành vi mua bán dâm ở phòng 302 thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thủy tiến hành kiểm tra, phát hiện lập biên bản vi phạm, thu giữ toàn bộ tang vật như trên.

Căn cứ vào hành vi phạm tội của Đinh Thị Minh X, ngày 17/01/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thủy đã quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Đinh Thị Minh X về tội “Môi giới mại dâm” quy định tại Khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sự. Tại Cơ quan điều tra, Đinh Thị Minh X đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và khai nhận người thoả thuận và nhờ X gọi gái bán dâm đến bán dâm cho T là Nguyễn Tiến D chứ không phải T. Tuy nhiên, cả D và T đều khai nhận T là người trực tiếp đặt vấn đề nhờ X gọi gái đến để mua dâm và nhờ D trả tiền cho X. Ngoài lời khai của X không còn chứng cứ nào khác chứng minh nên không có căn cứ việc D thoả thuận, đặt vấn đề nhờ X gọi P đến bán dâm cho T.

Bản cáo trạng số 18/CT-VKSTT ngày 02 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Đinh Thị Minh X (tên gọi khác: H) tội “Môi giới mại dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật hình sự

Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Thủy vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo và đề nghị Hội đồ ng xét xử:

* Căn cứ vào Khoản 1, Điều 328; Điểm i, s Khoản 1, Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

* Tuyên bố: Bị cáo Đinh Thị Minh X (tên gọi khác: H) phạm tội “Môi giới mạidâm”.

* Xử phạt: Bị cáo Đinh Thị Minh X (H) từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Đinh Thị Minh X (H) cho UBND xã M, huyện B, thành phố H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát bị cáo.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp bị cáo X (H) thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tạiKhoản 1, Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Miễn hình phạt bổ sung theo Khoản 4, Điều 328 Bộ luật hình sự cho bị cáo X(Hương).

* Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu số tiền 1.300.000đ (Một triệu ba trăm nghìn đồng) để sung Ngân sáchNhà nước.

- Tịch thu 02 bao cao su nhãn hiệu Medevice 3s, 02 bao cao su nhãn hiệuToshiro chưa qua sử dụng để tiêu hủy.

- Trả lại cho bị cáo Đinh Thị Minh X (H) 01 điện thoại di động OPPO màu đỏ, đã cũ lắp hai sim số 0967.487.xxx và 0385.509.xxx.

-   Xác nhận cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thủy đã trả lại cho các chủ sở hữu các tài sản là hợp pháp, gồm:

+ Trả lại cho Đinh Thị Minh X 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead màu đỏ nâu bạc không có biển kiểm soát, 01 ví giả da nữ màu tím bên trong có 01 thẻ căn cước của X và số tiền 1.100.000đ.

+ Trả lại cho Vũ Thị P 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng đã cũ bên tronglắp sim số 0354.166.xxx.

+ Trả lại cho Nguyễn Hà T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 230 bên trong lắp sim số 0945.479.xxx

+ Trả lại cho Nguyễn Tiến D 01 điện thoại di động nhãn hiệu F201 màu xanh đã cũ bên trong lắp sim số 0944.559.xxx.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo :

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo Đinh Thị Minh X (tên gọi khác: H) đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố là đúng, không oan sai. Lời khai nhận của bị cáo tại cơ quan điều tra và lời khai nhận tại phiên tòa hôm nay đều thống nhất với nhau, phù hợp với nội dung vụ án và phù hợp với vật chứng thu giữ. Như vậy có thể khẳng định: Ngày 12/01/2019, tại nhà nghỉ L thuộc khu P, thị trấn T, huyện T, Đinh Thị Minh X - Sinh năm 1987, ở Thôn L, xã M, huyện B, thành phố H đã có hành vi thỏa thuận, nhận số tiền 1.000.000đ để Nguyễn Hà T – Sinh năm 1973, ở Khu 6 xã T, huyện T, tỉnh T mua dâm với gái bán dâm là Vũ Thị P – Sinh năm 1991, ở Đội 1, thôn B, xã H, huyện B, tỉnh H. X thoả thuận trả cho P số tiền 500.000đ, còn X được hưởng lợi số tiền 500.000đ từ việc môi giới mại dâm. Do đó có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã phạm tội “Môi giới mại dâm” theo quy định tại Khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sự

Khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sự quy định

“1. Người nào làm T gian dụ dỗ, dẫn dắt để người khác thực hiện việc mua dâm,bán dâm, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm...”

[2] Xét tính chất vụ án là ít nghiêm trọng. Tuy nhiên hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an ở địa phương, ảnh hưởng đến giá trị đạo đức xã hội, cũng như ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, là nguồn gốc phát sinh, lây nhiễm nhiều căn bệnh xã hội. Do vậy cần phải xét xử nghiêm minh đối với bị cáo để có tác dụng giáo dục riêng, phòng ngừa chung.

[3] Xét nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thấy rằng:

Bi cáo không có tiền án, tiền sự, có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều đã thành khẩn khai báo, ăn năm hối cải nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm i, s khoản 1Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1, Điều 52 Bộ luật hình sự.

Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú ổn định, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo ít nghiêm trọng nên không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà chỉ cần áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo đối với bị cáo kết hợp với sự giám sát của chính quyền địa phương và gia đình cũng đủ điều kiện cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 328 của Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Tuy nhiên xét thấy bị cáo X (H) không có thu nhập ổn định và không có tài sản riêng có giá trị nên HĐXX miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[4] Về vật chứng:

 Đối với số tiền 1.300.000đ của Nguyễn Tiến D, Nguyễn Hà T là tiền mua, bán dâmnên cần tịch thu để sung vào ngân sách Nhà nước.

Đối với 02 bao cao su nhãn hiệu Medevice 3s, 02 bao cao su nhãn hiệu Toshiro chưa qua sử dụng của Nguyễn Tiến S cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động OPPO màu đỏ, đã cũ lắp hai sim số0967.487.xxx và 0385.509.xxx đây là tài sản hợp pháp của bị cáo X cần trả lại.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thanh Thủy đã trả lại cho các chủ sở hữu một số tài sản đã thu giữ gồm:

+ Trả lại cho Đinh Thị Minh X 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead màu đỏ nâu bạc không có biển kiểm soát, 01 ví giả da nữ màu tím bên trong có 01 thẻ căn cước của X và số tiền 1.100.000đ.

+ Trả lại cho Vũ Thị P 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng đã cũ bên trong lắp sim số 0354.166.xxx.

+ Trả lại cho Nguyễn Hà T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 230 bên trong lắp sim số 0945.479.xxx

+ Trả lại cho Nguyễn Tiến D 01 điện thoại di động nhãn hiệu F201 màu xanh đã cũ bên trong lắp sim số 0944.559.xxx

[5] Đối với hành vi mua bán dâm của Đinh Thị Minh X (H) đối với Nguyễn Tiến D: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thuỷ đã xử lý hình sự đối với hành vi môi giới mại dâm của X. Áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo nên không xử lý hành chính đối với hành vi bán dâm của X trong vụ án này là phù hợp.

Đối với Nguyễn Tiến D – Sinh năm 1977, Nguyễn Hà T – Sinh năm 1973, cùng ở xã T, huyện T và Vũ Thị P – Sinh năm 1991, ở Đội 1, thôn B, xã H, huyện B, tỉnh H, là những người đã thực hiện hành vi mua bán dâm tại Nhà nghỉ L, nên Công an huyện Thanh Thủy đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với D, T và P theo quy định tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ là đúng quy định.

Đối với anh Vũ Văn L – Sinh năm 1980, ở thôn P, xã H, huyện C, thành phố H là chủ nhà nghỉ L và anh Nguyễn Tiến S - Sinh năm 1992, ở Khu 10 xã P, huyện T, là quản lý nhà nghỉ, quá trình điều tra anh L và anh S không biết việc mua bán dâm giữa các đối tượng và đã thực hiện đúng theo quy định về lưu trữ tại nhà nghỉ nên Cơ quan Công an không đề cập xử lý trong vụ án này.

 [6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án.

[7] Các quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào Khoản 1, Điều 328; Điểm i, s Khoản 1, Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

* Tuyên bố: Bị cáo Đinh Thị Minh X (tên gọi khác: H) phạm tội “Môi giới mại dâm”.

* Xử phạt: Bị cáo Đinh Thị Minh X (H) 12 (mười hai) tháng tù, nhưng chohưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Đinh Thị Minh X (H) cho UBND xã M, huyện B, thành phố H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát bị cáo.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp bị cáo X (H) thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tạiKhoản 1, Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Miễn hình phạt bổ sung theo Khoản 4, Điều 328 Bộ luật hình sự cho bị cáo X(Hương).

Hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 29 ngày 17/01/2019 đối với bị cáo X.

* Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào Khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 2, 3Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu số tiền 1.300.000đ(Một triệu ba trăm nghìn đồng) trong đó của Nguyễn Tiến D 300.000đ, của Nguyễn Hà T 1.000.000đ để sung Ngân sách Nhà nước.

- Tịch thu 02 bao cao su nhãn hiệu Medevice 3s, 02 bao cao su nhãn hiệuToshiro chưa qua sử dụng của anh Nguyễn Tiến S để tiêu hủy.

- Trả lại cho bị cáo Đinh Thị Minh X (Hương) 01 điện thoại di động OPPO màuđỏ, đã cũ lắp hai sim số 0967.487.xxx và 0385.509.xxx

Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Thủy đang quản lý, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/4/2019.

- Xác nhận cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thủy đã trả lại cho các chủ hữu sở các tài sản theo biên bản trả lại đồ vật, tài liệu ngày 22/01/2019, là hợp pháp, gồm:

+ Trả lại cho Đinh Thị Minh X 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead màu đỏ nâu bạc không có biển kiểm soát, 01 ví giả da nữ màu tím bên trong có 01 thẻ căn cước của X và số tiền 1.100.000đ.

+ Trả lại cho Vũ Thị P 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng đã cũ bên trong lắp sim số 0354.166.xxx

+ Trả lại cho Nguyễn Hà T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 230 bên trong lắp sim số 0945.479.xxx

+ Trả lại cho Nguyễn Tiến D 01 điện thoại di động nhãn hiệu F201 màu xanh đã cũ bên trong lắp sim số 0944.559.xxx

* Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án

Bị cáo Đinh Thị Minh X (H) phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm

*Quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày; kể từ ngày tuyên án bị cáo có mặt có quyền kháng cáo Bản án; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ; để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

623
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 16/2019/HSST ngày 25/04/2019 về tội môi giới mại dâm

Số hiệu:16/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Thuỷ - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;