Bản án 16/2019/HS-ST ngày 21/03/2019 về tội tàng trái trữ phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 16/2019/HS-ST NGÀY 21/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 11/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Cao Thị L, sinh ngày 03/6/1971; nơi sinh: Huyện H, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Xóm 5, xã H, huyện H, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị S (tên gọi khác Nguyễn Thị T); có chồng và chưa có con; tiền án, tiền sự: Không; lịch sử bản thân: Tại bản án số 82/2009/HSST ngày 16/7/2009 Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt Cao Thị L 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 31/8/2009 Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình ban hành Quyết định số 02/2009/QĐ-TA miễn chấp hành hình phạt tù còn lại đối với Cao Thị L; tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về an ninh trật tự ngày 28/11/2012 của Công an thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt Cao Thị L cảnh cáo về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/11/2018 đến ngày 16/11/2018 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình theo Quyết định tạm giam số 05/2019/HSST-QĐTG ngày 11/02/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp.(Có mặt).

- Người làm chứng: Ông Phan Thế M. (Vắng mặt).

- Người chứng kiến:

+ Ông Bùi Văn T. (Vắng mặt).

+ Chị Phạm Thị Th. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 15 phút ngày 14/11/2018, Tổ công tác Công an thành phố Tam Điệp phối hợp với Công an phường Trung Sơn tuần tra phát hiện Cao Thị L đang đi bộ tại tổ 13 phường Trung Sơn, thành phố Tam Điệp có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra thì phát hiện trên tay phải của L đang cầm 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, ở vị trí kẽ giữa vỏ túi nilon màu trắng bọc bao thuốc lá và vỏ bao thuốc lá có 01 gói nhỏ bọc giấy màu đỏ. L khai nhận trong gói nhỏ bọc giấy màu đỏ ở vị trí kẽ giữa vỏ túi nilon màu trắng bọc bao thuốc lá và vỏ bao thuốc lá là ma túy loại Heroine mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác thu giữ và mở kiểm tra bao thuốc lá Thăng Long xác định trong bao thuốc không có điếu thuốc lá và không có vật gì khác; tại vị trí kẽ giữa vỏ túi nilon màu trắng bọc bao thuốc lá và vỏ bao thuốc lá có 01 gói nhỏ bọc giấy màu đỏ, mở kiểm tra bên trong là 01 lớp giấy màu trắng có dòng kẻ bọc chất bột dạng cục màu trắng. Sau đó, Tổ công tác tiến hành niêm phong bao thuốc lá Thăng Long cùng gói nhỏ bọc giấy màu đỏ mà L khai nhận là Heroine theo quy định của pháp luật.

Cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng được bọc trong lớp giấy màu trắng có dòng kẻ và lớp giấy màu đỏ bên ngoài thu giữ của Cao Thị L là 0,17 gam kí hiệu M gửi trưng cầu giám định.

Tại bản kết luận giám định số 203/KLGĐ-PC09-MT ngày 16/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,1636gam là ma túy, loại Heroine. Heroine là chất ma túy thuộc danh mục I, số thứ tự 9, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại bản cáo trạng số 13/CT-VKSTĐ ngày 23/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp truy tố bị cáo Cao Thị L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp vẫn giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Cao Thị L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Cao Thị L từ 13 tháng đến 15 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 14/11/2018. Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 §iÒu 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,1288 gam Heroine còn lại sau khi giám định và toàn bộ vỏ bao gói trong gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì giấy niêm phong, bên ngoài ghi số: 203/2018/GĐMT; 01 phong bì giấy niêm phong, bên trong có: 01 vỏ túi nilon màu trắng; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 mảnh giấy màu đỏ; 01 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ; 01 vỏ phong bì giấy đã dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu của Cao Thị L.

Trong quá trình điều tra, ông Phan Thế M trình bày: Ông nhìn thấy trên tay phải của L đang cầm 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, tại vị trí kẽ giữa vỏ túi nilon màu trắng bọc bao thuốc lá và vỏ bao thuốc lá có 01 gói nhỏ bọc giấy màu đỏ, L khai nhận đó là ma túy loại Heroine, L mua về để sử dụng cho bản thân.

Trong quá trình điều tra, ông Bùi Văn T trình bày: Ông chứng kiến việc công an kiểm tra Cao Thị L, công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và các hoạt động của công an đều được lập thành biên bản.

Trong quá trình điều tra, chị Phạm Thị Th trình bày: Ngày 15/11/2018 chị chứng kiến công an tiến hành xét nghiệm, kiểm tra chất ma túy và kiểm tra dấu vết trên thân thể đối với Cao Thị L, mọi hoạt động của công an đều được lập biên bản ghi nhận lại.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi bị truy tố như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt và nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Tam Điệp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, người chứng kiến; vật chứng đã thu giữ; Kết luận giám định số 203/KLGĐ- PC09-MT ngày 16/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận: Ngày 14/11/2018, Cao Thị L có hành vi cất giữ trái phép 0,1636 gam ma túy, loại Heroine trong người để sử dụng.

Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm...c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”;

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo Cao Thị L đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp truy tố bị cáo Cao Thị L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, song bị cáo không lấy đó làm bài học để sửa chữa, phấn đấu trở thành công dân có ích cho gia đình, xã hội mà lại phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[5] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, để giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng không nhằm mục đích kiếm lời. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Về 0,1288 gam chất bột màu trắng còn lại trong mẫu ký hiệu M là ma túy, loại Heroine là vật cấm lưu hành; toàn bộ vỏ bao gói trong gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì giấy niêm phong, bên ngoài ghi số: 203/2018/GĐMT; 01 phong bì giấy niêm phong, bên trong có: 01 vỏ túi nilon màu trắng; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 mảnh giấy màu đỏ; 01 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ; 01 vỏ phong bì giấy đã dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu của Cao Thị L đều không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 §iÒu 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chi tiết vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 24 tháng 01 năm 2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình).

[8] Về nguồn gốc ma túy: Cao Thị L khai mua ma túy của một người phụ nữ không quen biết ở đường Cao Bá Quát thuộc tổ 13, phường Trung Sơn, thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được người bán ma túy cho bị cáo L nên đã tách tài liệu liên quan để tiếp tục điều tra và xử lý sau.

Đối với người nam thanh niên đã nói cho bị cáo biết khu vực tổ 13, phường Trung Sơn, thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình có người bán ma túy vào ngày 14/11/2018 như bị cáo L khai nhận. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh về người nam thanh niên kể trên, kết quả không xác định được nhân thân, lai lịch của nam thanh niên này nên không có cơ sở để xem xét giải quyết.

[9] Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[10] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

- Điểm a, c khoản 2 §iÒu 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Cao Thị L phạm tội “Tàng trái trữ phép chất ma túy”. 

Xử phạt: Bị cáo Cao Thị L 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 14/11/2018.

2. Xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 phong bì giấy niêm phong, bên ngoài ghi số: 203/2018/GĐMT, bên trong gồm có: 0,1288 gam chất bột màu trắng còn lại trong mẫu ký hiệu M là ma túy, loại Heroine và toàn bộ vỏ bao gói trong gói niêm phong ban đầu.

+ 01 phong bì giấy niêm phong, bên trong có: 01 vỏ túi nilon màu trắng; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 mảnh giấy màu đỏ; 01 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ; 01 vỏ phong bì giấy đã dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu của Cao Thị L.

(Chi tiết vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 24 tháng 01 năm 2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Cao Thị L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 16/2019/HS-ST ngày 21/03/2019 về tội tàng trái trữ phép chất ma túy

Số hiệu:16/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Điệp - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;