TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 16/2019/HS-ST NGÀY 04/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 04 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 11/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 01 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2019/QXXST-HS ngày 22-02-2019 đối với bị cáo:
Trần Phát T, sinh ngày 02-11-2000; Nơi sinh: Sóc Trăng; Nơi thường trú: Số 45/2 đường T, Khóm 7, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Trần P và bà Huỳnh Thị Thu T; Có vợ và 01 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giữ chuyển tạm giam từ ngày 15-12-2018 cho đến nay. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc khoảng 00 giờ 40 phút ngày 15-12-2018, công an thành phố Sóc Trăng kết hợp cùng công an Phường 2, thành phố S trong quá trình tuần tra tại khu vực ngã ba đường Trần P và đường Trần Văn S thuộc Khóm 1, Phường 2, thành phố S đã phát hiện Trần Phát T đang điều khiển xe đạp trên đường có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra, kết quả phát hiện trong túi áo khoác bên trái (túi trong) mà T đang mặc trên người có một bao thuốc lá hiệu Hero, bên trong đựng 01 bịch nylon được hàn kín chứa tinh thể rắn màu trắng, nghi vấn là chất ma túy nên đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T đồng thời niêm phong bịch nylon chứa tinh thể rắn gửi giám định.
Tại Kết luận giám định số 84/GĐMT-PC09 ngày 17 tháng 12 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - công an tỉnh Sóc Trăng kết luận: Mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng (trọng lượng) 0,152 gam, là Methamphetamine.
Quá trình làm việc T khai nhận bản thân bắt đầu sử dụng ma túy từ khoảng tháng 01 năm 2018 cho đến nay, loại ma túy sử dụng là ma túy đá, hình thức sử dụng là hút. Do muốn có ma túy để sử dụng nên vào khoảng 18 giờ ngày 14-12-2018, T lấy xe đạp của cha là ông Trần P nói là đi nhặt ve chai rồi điều khiển đi đến đường V thuộc Khóm 1, Phường 6, thành phố S gặp một người thanh niên khoảng hơn 20 tuổi, nhưng không biết họ tên và địa chỉ hỏi mua 01 bịch ma túy đá với giá 150.000 đồng thì người này đồng ý nhận tiền rồi đưa bịch ma túy cho T. Lấy bịch ma túy xong, T bỏ vào trong bao thuốc lá hiệu Hero để trong túi áo khoác bên trái đang mặc trên người rồi đạp xe về nhà, đến khoảng 22 giờ cùng ngày, T đi bộ từ nhà ra khu vực vắng người trong Hẻm 45 đường T, Phường 3, thành phố S rồi lấy một ít ma túy ra sử dụng, số ma túy còn lại trong bịch nylon T dùng hộp quẹt gas hàn lại rồi cất vào trong bao thuốc lá hiệu Hero để vào trong túi áo khoác. Đến khoảng 00 giờ ngày 15-12-2018, T mang theo bịch ma túy vừa mua và đạp xe đi lòng vòng trong thành phố S nhặt ve chai cho đến khoảng 00 giờ 40 phút ngày 15-12-2018 khi T đang đi trên đường T đến đoạn ngã ba giao với đường T thuộc Khóm 1, Phường 2, thành phố S thì bị lực lượng công an bắt quả tang cùng tang vật.
Tại Cáo trạng số 15/VKS.TPST ngày 28-01-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Trần Phát T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: bị cáo Trần Phát T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong số 84/GĐMT-PC09 ngày 17-12-2018 có chữ ký của Giám định viên Phạm Thanh Trường S, Trợ lý giám định Phùng Thúy A và Điều tra viên Tiền Thanh Phong; 01 áo khoác màu xám; 01 ống thủy tinh không đo kích thước; 01 ống nhựa màu trắng-xanh không đo kích thước; 01 lưỡi lam hiệu Bic; 01 hột quẹt gas màu tím; 01 nắp nhựa màu đỏ có khoét hai lỗ; 01 bao thuốc lá hero.
Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng tội. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đảm bảo đúng theo quy định pháp luật.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Phát T đã khai nhận:
Bị cáo là người nghiện ma túy và bắt đầu sử dụng ma túy từ khoảng tháng 01-2018 cho đến ngày bị bắt, loại ma túy mà bị cáo sử dụng là ma túy đá, hình thức sử dụng là hút. Vào khoảng 18 giờ ngày 14-12-2018, bị cáo chạy xe đạp đến đường V, Khóm 1, Phường 6, thành phố S, gặp một người thành niên khoảng hơn 20 tuổi, nhưng không rõ họ tên và nơi cư trú, hỏi mua 01 bịch ma túy đá với giá 150.000 đồng thì người thanh niên đồng ý và bán ma túy cho bị cáo. Sau khi lấy ma túy xong, bị cáo cất giấu vào trong bao thuốc lá rồi bỏ trong túi áo khoác bên trái của bị cáo đang mặc rồi đạp xe đi về nhà. Vào khoảng 22 giờ cùng ngày, bị cáo đi bộ vào trong Hẻm 45 đường T, Phường 3, thành phố S lấy một ít ma túy ra sử dụng, số ma túy còn lại bị cáo bỏ bao thuốc lá rồi cất giấu trong túi áo khoác và chạy xe đạp đi nhặt ve chai. Đến khoảng 00 giờ ngày 15-12-2018, khi bị cáo đang đi trên đường T đến đoạn ngã ba giao với đường T thuộc Khóm 1, Phường 2, thành phố S thì bị lực lượng công an bắt quả tang và thu giữ ma túy.
[3] Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp với lời khai bị cáo trong quá trình điều tra cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Đối với bị cáo Trần Phát T đã mua 01 bịch ma túy về cất giấu nhằm mục đích sử dụng, qua giám định ma túy là Methamphetamine, có khối lượng (trọng lượng) là 0,152 gam. Do đó, Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Trần Phát T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Xét về nhân thân, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cần được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[5] Đối với người thanh niên đã bán ma túy cho bị cáo, do không biết rõ họ tên và địa chỉ cụ thể nên cơ quan Điều tra chưa làm việc được. Đề nghị Cơ quan Điều tra tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý theo quy định pháp luật.
[6] Về xử lý vật chứng của vụ án như sau: Đối với 01 gói niêm phong số 84/GĐMT-PC09 ngày 17-12-2018; 01 áo khoác màu xám; 01 ống thủy tinh; 01 ống nhựa màu trắng-xanh; 01 lưỡi lam; 01 hột quẹt; 01 nắp nhựa màu đỏ; 01 bao thuốc lá hero là vật cấm lưu hành, công cụ dùng để sử dụng ma túy, cất giấu ma túy và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[8] Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh và việc áp dụng pháp luật là có căn cứ. Về hình phạt cần xử phạt bị cáo mức khởi điểm như Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Căn cứ vào điểm a Khoản 2 Điều 106; Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Trần Phát T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1. Xử phạt bị cáo Trần Phát T 01 (một) năm tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày 15-12-2018.
2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy:
- 01 gói niêm phong số 84/GĐMT-PC09 ngày 17-12-2018 có chữ ký của Giám định viên Phạm Thanh Trường S, Trợ lý giám định Phùng Thúy A và Điều tra viên Tiền Thanh Phong.
- 01 áo khoác màu xám
- 01 ống thủy tinh không đo kích thước
- 01 ống nhựa màu trắng - xanh không đo kích thước
- 01 lưỡi lam hiệu Bic;
- 01 hột quẹt gas màu tím - 01 nắp nhựa màu đỏ có khoét hai lỗ
- 01 bao thuốc lá hero
3. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp là 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Báo cho bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.
Bản án 16/2019/HS-ST ngày 04/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 16/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/03/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về