Bản án 16/2019/HNGĐ-ST ngày 20/08/2019 về tranh chấp ly hôn giữa anh Bùi Văn T và chị Bùi Thị L

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 16/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN GIỮA ANH BÙI VĂN T VÀ CHỊ BÙI THỊ L

Ngày 20 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 31/2019/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2019/QĐXX-ST ngày 05 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2019QĐST-HNGĐ, ngày 02 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Bùi Văn T, sinh năm 1980.

Nơi cư trú: xóm M, xã B, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Chị Bùi Thị L, sinh năm 1987.

Nơi cư trú: xóm M, xã B, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, nguyên đơn là anh Bùi Văn T trình bày: anh và chị Bùi Thị L kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện L, tỉnh Hòa Bình ngày 15/4/2011. Cuộc sống chung sau khi kết hôn giữa hai vợ chồng ban đầu có hạnh phúc. Do kinh tế gia đình khó khăn nên anh Bùi Văn T đồng ý cho chị Bùi Thị L đi làm ăn xa nhà. Một năm sau đó chị Bùi Thị L về và tự bỏ đi ngày 20/10/2016 mà không bàn bạc gì với anh Bùi Văn T. Mâu thuẫn vợ chồng nảy sinh và ngày càng trầm trọng và đã sống ly thân nhau từ đó đến nay. Quá trình sống ly thân anh T và chị L không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay anh Bùi Văn T thấy tình cảm vợ chồng không còn nên khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Bùi Thị L. Về con chung: anh Bùi Văn T và chị Bùi Thị L có 02 con chung là Bùi Minh T, sinh ngày 30/8/2009 và Bùi Tuấn K, sinh ngày 05/5/2013.

Khi ly hôn, anh Bùi Văn T nhận trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung sau ly hôn và chưa yêu cầu chị Bùi Thị L đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, anh Bùi Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung, anh Bùi Văn T khai là không có.

Về phía chị Bùi Thị L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không có mặt mà không có lý do chính đáng. Tòa án đã xác minh địa chỉ nơi cư trú của chị Bùi Thị L thể hiện chị Bùi Thị L có địa chỉ rõ ràng; có đăng ký nhân khẩu thường trú tại địa chỉ anh T đã cung cấp cho Tòa án nhưng thường xuyên vắng mặt tại nơi đăng ký nhân khẩu thường trú do đi làm ăn xa, không có chỗ ở ổn định nên không lấy được ý kiến của chị Bùi Thị L. Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để xem xét.

Về nguyện vọng của con chung: Tòa án đã lấy ý kiến của cháu Bùi Minh T vì cháu đã trên 7 tuổi, xác định cháu Bùi Minh T có nguyện vọng ở với bố là anh Bùi Văn T sau khi ly hôn.

Về nợ chung của vợ chồng: Đã được Tòa án xác minh, thể hiện: anh Bùi Văn T và chị Bùi Thị L không có nợ chung.

Tại phiên tòa, anh Bùi Văn T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình.

Phía đại diện Viện kiểm sát nhận định về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự khi giải quyết vụ án. Người tham gia tố tụng là nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng. Đối với bị đơn có địa chỉ cư trú rõ ràng, đã được Tòa án thông báo, tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng vẫn không tham gia tố tụng. Do vậy, Tòa án vẫn tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: thấy rằng quan hệ hôn nhân giữa anh Bùi Văn T và chị Bùi Thị L có mâu thuẫn trầm trọng; đã sống ly thân thời gian dài và vợ chồng không còn quan tâm đến nhau; không còn tình cảm vợ chồng; mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử quyết định cho ly hôn. Về việc nuôi con, cần xem xét nguyện vọng chính đáng của con. Về tài sản do anh T chưa có yêu cầu giải quyết, nợ chung của vợ chồng không có nên không đề nghị xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, chị Bùi Thị L không có mặt tại Tòa án mà không có lý do chính đáng. Tòa án đã xác minh địa chỉ của chị Bùi Thị L đúng như địa chỉ mà nguyên đơn đã cung cấp. Tòa án đã tiến hành cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng theo đúng quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 172; khoản 3, khoản 5 Điều 177 và Điều 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự cho chị Bùi Thị L. Do bị đơn là chị Bùi Thị L được triệu hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do nên vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Chị Bùi Thị L đã được Tòa án triệu tập đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Bùi Thị L theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án: Xét quan hệ hôn nhân giữa anh Bùi Văn T và chị Bùi Thị L khi kết hôn là tự nguyện, không vi phạm về độ tuổi cũng như những quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn. Do vậy, hôn nhân giữa anh Bùi Văn T và chị Bùi Thị L được xác định là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống sau khi kết hôn giữa anh T và chị L có xảy ra mâu thuẫn. Mâu thuẫn đã được xác minh thể hiện vợ chồng anh T chị L do điều kiện kinh tế khó khăn nên chị L đi làm ăn xa dẫn đến vợ chồng thiếu tin tưởng lẫn nhau; đã sống ly thân nhau khoảng hơn 02 năm nay. Quá trình sống ly thân anh T, chị L cũng không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau mà bỏ mặc ai muốn sống thế nào cũng được. Như vậy, anh T và chị L đã không còn thương yêu, không còn chung sống cùng nhau, tình nghĩa vợ chồng không còn, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; đã vi phạm Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình. Do đó, xét chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Bùi Văn T là có căn cứ, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Xác nhận anh Bùi Văn T và chị Bùi Thị L có 02 con chung là Bùi Minh T, sinh ngày 30/8/2009 và Bùi Tuấn K, sinh ngày 05/5/2013. Khi ly hôn, anh Bùi Văn T nhận trực tiếp nuôi con chung. Xét điều kiện nuôi con của cả hai bên thấy rằng: phía anh Bùi Văn T có việc làm thu nhập, chỗ ở ổn định còn phía chị Bùi Thị L hiện đi làm ăn xa, thường xuyên không sinh sống tại nơi đăng ký nhân khẩu thường trú, không có chỗ ở ổn định. Hơn nữa, xét nguyện vọng của con chung là muốn ở với bố và trên thực tế các cháu vẫn ở với bố là anh Tiếp từ khi anh T và chị L sống ly thân nhau. Vì quyền lợi mọi mặt của các con chung, Hội đồng xét xử xét cần chấp nhận giao cháu Bùi Minh T và cháu Bùi Tuấn K cho anh Bùi Văn T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng là có căn cứ, hợp tình, hợp lý. Về nghĩa vụ cấp dưỡng, do anh Bùi Văn T chưa có yêu cầu chị L đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung và xét đây là ý kiến tự nguyện của anh T, nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Anh Bùi Văn T vẫn có quyền yêu cầu chị Bùi Thị L cấp dưỡng, thay đổi mức cấp dưỡng, thay đổi người trực tiếp nuôi con trong quá trình anh Bùi Văn T nuôi dưỡng các con chung cho đến khi đủ 18 tuổi.

[4] Về tài sản chung: Do anh Bùi Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết và việc chị Bùi Thị L vắng mặt nên Tòa án không lấy được ý kiến của chị L nên không có cơ sở xem xét. Trường hợp sau này có tranh chấp về tài sản chung và có yêu cầu thì sẽ được xem xét bằng vụ việc khác.

[5] Về nợ chung của vợ chồng: Xác định không có.

[6] Án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Bùi Văn T về việc xin ly hôn; cho anh Bùi Văn T được ly hôn với chị Bùi Thị L.

2. Về nuôi con: Giao cả hai con chung của anh Bùi Văn T và chị Bùi Thị L là Bùi Minh T, sinh ngày 30/8/2009 và Bùi Tuấn K, sinh ngày 05/5/2013 cho anh Bùi Văn T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng sau ly hôn. Chị Bùi Thị L chưa phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung do anh Bùi Văn T chưa có yêu cầu. Chị Bùi Thị L có quyền thăm nom con chung sau ly hôn mà không ai được cản trở. Chị Bùi Thị L không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của anh Bùi Văn T.

3. Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: Về tài sản đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung xác nhận không có.

4. Án phí: Anh Bùi Văn T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0000670 ngày 07/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn; anh Bùi Văn T đã nộp xong án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 16/2019/HNGĐ-ST ngày 20/08/2019 về tranh chấp ly hôn giữa anh Bùi Văn T và chị Bùi Thị L

Số hiệu:16/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;