TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 16/2019/DSPT NGÀY 13/02/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN
Ngày 13 tháng 02 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 03/2019/TLPT-DS, ngày 02 tháng 01 năm 2019 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 41/2018/DSST ngày 08 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 31/2019/QĐ-PT, ngày 17 tháng 01 năm 2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1984, có mặt.
Cư trú tại: Ấp X, xã Y, huyện Z, tỉnh Vĩnh Long.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1966, có mặt.
Cư trú tại: Ấp H, xã Y, huyện Z, tỉnh Vĩnh Long.
3. Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn Đ - Là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Tại đơn khởi kiện ngày 20/07/2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Nguyễn Văn T trình bày: Từ ngày 06/09/2016 đến ngày 24/03/2017 ông Nguyễn Văn Đ có đến cửa hàng của ông Nguyễn Văn T mua phân bón và thuốc trừ sâu để bón cho cây cam sành và ông Đ còn thiếu ông tiền mua phân bón và thuốc trừ sâu là 95.725.000đồng.
Ngày 24/03/2017, Công ty TNHHMTV Nông nghiệp TLT (gọi tắt là Công ty TLT) tổ chức hội thảo tại nhà ông Võ Văn B có triển khai chương trình bốc thăm trúng thưởng nên ông Đ đăng ký mua 10 sản phẩm gồm: 06 can Nutri trị giá 10.800.000đồng và 04 bao Oganic trị giá 6.400.000đồng, tổng cộng 10 sản phẩm trị giá 17.200.000đồng. Sau khi hội thảo kết thúc cùng ngày thì ông Nguyễn Hoàng T1 là người làm thuê cho ông T đã giao 10 sản phẩm trên cho ông Đ, ông Đ trực tiếp nhận nhưng khi đó không có ghi 10 sản phẩm đó vào sổ của ông Đ mà chỉ ghi vào sổ tổng của ông T. Đến ngày 09/06/2017, Công ty TLT tổ chức mở phiếu bốc thăm trúng thưởng thì ông Đ trúng được giải nhất (giải đặc biệt) được chiếc xe Honda hiệu Wave 110 trị giá chiếc xe là 17.000.000 đồng. Khi trúng thưởng xe thì ông Đ không nhận mà yêu cầu ông T trừ vào tiền nợ phân thuốc. Sau khi trừ lại 17.000.000đồng tiền chiếc xe ông Đ không nhận thì số tiền ông Đ còn nợ là 95.925.000đồng, tuy nhiên ông Đ không thống nhất với số tiền nợ này do ông cho rằng ngày 09/10/2016 ông không có mua 10 thùng Super Root nên trong sổ mua hàng của ông có ghi. Nhưng sau khi đối chiếu sổ của ông T thì ông Đ thống nhất với số lượng phân thuốc ghi trong sổ ông T. Đến ngày 08/08/2017, ông Đ đã trả cho ông được 70.000.000đồng tiền phân thuốc và còn nợ lại số tiền 25.925.000đồng.
Nay ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Đ phải trả số tiền mua phân bón và thuốc trừ sâu còn lại cho ông là 25.925.000 đồng.
- Bị đơn ông Nguyễn Văn Đ Trình bày: Ông Đ thừa nhận có mua phân bón và thuốc trừ sâu của cửa hàng ông T để chăm bón cho cây cam sành, thời gian ông mua phân thuốc từ ngày 06/09/2016 đến ngày 09/06/2017, hai bên tổng kết số nợ tiền phân thuốc mà ông còn thiếu ông T tổng cộng là 95.925.000đồng nhưng sổ của ông chỉ ghi thiếu ông T 77.755.000đồng, chênh lệch với nhau số tiền là 18.170.000đồng do ngày 09/10/2016 ông có mua của ông T 10 thùng Super Root trị giá 18.170.000đồng nhưng không có ghi vào sổ của ông. Do đó tổng số tiền ông Đ còn nợ ông T là 95.925.000đồng. Ngày 24/03/2017 tại hội thảo do Công ty TLT tổ chức tại nhà của ông Võ Văn B thì ông có đăng ký mua 06 can Nutri và 04 bao Oganic, ông nhận được 05 phiếu bốc thăm đến ngày mở thưởng ông có dự mở thưởng. Nhưng sau đó ông T không có giao cho ông 06 can Nutri và 04 bao Oganic như ông đã đăng ký do ông Đ còn thiếu tiền nợ phân thuốc ông T.
Ngày 09/06/2017 tại chương trình mở thăm trúng thưởng do Công ty TLT tổ chức thì ông có trúng giải nhất (giải đặc biệt) là chiếc xe Honda hiệu Wave
110 trị giá chiếc xe là 17.000.000đồng, nhưng ông không nhận xe mà yêu cầu ông T trừ tiền chiếc xe vào tiền phân thuốc. Do đó ông Đ chỉ còn nợ ông T số tiền 8.925.000đồng.
- Tại bản khai ý kiến ngày 15/08/2018 trong quá trình tham gia tố tụng người làm chứng Thạch T2 trình bày: Ông là giám đốc của Công ty TLT vào ngày 24/03/2017 công ty của ông có tổ chức hội thảo tại nhà của ông Võ Văn B và có triển khai chương trình đăng ký mua hai sản phẩm sẽ được 01 phiếu bốc thăm trúng thưởng, tại hội thảo ông Đ đăng ký mua 10 sản phẩm gồm: 06 can Nutri trị giá 10.800.000đồng và 04 bao Oganic trị giá 6.400.000đồng, tổng cộng 10 sản phẩm trị giá 17.200.000đồng. Sau một tuần thì công ty giao đủ số lượng phân bón theo người dân đăng ký xuống cửa hàng ông T, khi đó cửa hàng ông T sẽ giao lại cho từng người có tên trong danh sách. Đến ngày 30/05/2017, công ty tổng hợp danh sách khách hàng đã mua sản phẩm như đăng ký thì mới có được phiếu bốc thăm. Ngày 09/06/2017, công ty của ông tổ chức hội thảo tổng kết số phiếu bốc thăm và mở thăm trúng thưởng những người dân được nằm trong danh sách ngày 30/05/2017 đều có phiếu bốc thăm và đều có mua sản phẩm phân thuốc của ông T, tại chương trình mở thăm trúng thưởng ông Đ trúng giải đặc biệt là chiếc xe Honda Wave 110 trị giá 17.000.000đồng. Lúc này ông Đ không nhận xe trúng thưởng mà nhận tiền để trừ vào số tiền nợ mua phân, thuốc còn thiếu tại cửa hàng của ông T.
- Tại bảng khai ý kiến ngày 25/09/2018 người làm chứng Nguyễn Hoàng T1 trình bày: Ông là người làm thuê cho ông T, khoảng tháng 03 năm 2017
Công ty TLT có tổ chức hội thảo tại nhà ông Võ Văn B, tại hội thảo ông Đ có đăng ký mua 06 can Nutri và 04 bao Oganic, ông Đ được 05 phiếu bốc thăm. Sau đó 02-03 ngày thì ông T1 đến nhà ông Đ để giao cho ông Đ 06 can Nutri và 04 bao Oganic do ông Đ trực tiếp nhận, ông có đưa cho ông Đ một giấy tay ghi tên loại phân thuốc và giá tiền. Ông Đ cho rằng ông không có nhận 06 can Nutri và 04 bao Oganic là không đúng sự thật vì đến ngày 09/6/2017 tổ chức bốc thăm trúng thưởng, ông Đ có tên trong danh sách tổng hợp mua sản phẩm để nhận phiếu bốc thăm trúng thưởng do Công ty TLT có tổ chức và ông Đ đã trúng giải đặc biệt.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 41/2018/DSST ngày 08 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long đã quyết định:
Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T. Buộc ông Nguyễn Văn Đ phải trả cho ông Nguyễn Văn T số tiền nợ mua phân bón và thuốc trừ sâu là 25.925.000 đồng.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí dân sự sơ thẩm, về lãi suất chậm thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 12/11/2018 bị đơn Nguyễn Văn Đ kháng cáo bản án sơ thẩm yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết cho ông Đ được trả cho ông T số tiền 8.925.000 đồng vì ông T không có giao cho ông Đ 06 can Nutri và 04 bao Oganic trị giá 17.200.000 đồng vào ngày 26/3/2017 như ông T trình bày.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị đơn ông Đ giữ nguyên yêu cầu kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết cho ông Đ được trả cho ông T số tiền 8.925.000đồng vì ông T không có giao cho ông Đ 06 can Nutri và 04 bao Oganic trị giá 17.200.000đồng.
- Nguyên đơn ông T không chấp nhận yêu cầu của ông Đ vì ông T đã giao 06 can Nutri và 04 bao Oganic cho ông Đ để ông Đ nhận 05 phiếu bốc thăm trúng thưởng, sau đó ông Đ đã bốc thăm và trúng thưởng 01 xe honda hiệu Wave 110 vào ngày 09/6/2017. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự tham gia tố tụng chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự;
Ý kiến của Kiểm sát viên về kháng cáo của bị đơn và đề nghị: Không chấp nhận yêu cầu của ông Đ. Giữ nguyên bản án sơ thẩm. Buộc ông Đ trả cho ông T tổng số tiền 25.925.000 đồng. Buộc ông Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả trong tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Bị đơn ông Nguyễn Văn Đ kháng cáo trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm theo quy định tại Điều 293 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của ông Đ cho rằng sau khi đăng ký mua 10 sản phẩm để nhận phiếu bốc thăm trúng thưởng thì ông T không giao hàng cho ông Đ gồm 06 can Nutri và 04 bao Oganic vì ông T cho rằng ông Đ còn nợ tiền phân, thuốc của ông T. Hội đồng xét xử xét thấy:
Ông Đ thừa nhận có mua phân bón và thuốc trừ sâu của đại lý ông T và tính đến ngày 24/3/2017 ông Đ nợ ông T tổng số tiền là 95.725.000 đồng. Ngày 24/3/2017 Công ty TLT tổ chức hội thảo và thông báo việc đăng ký mua sản phẩm để nhận phiếu bốc thăm trúng trưởng. Lúc này ông Đ đăng ký mua 10 sản phẩm gồm 06 can Nutri và 04 bao Oganic, tổng trị giá 10 sản phẩm là 17.200.000 đồng.
Ông T khai rằng, căn cứ vào danh sách đăng ký mua sản phẩm của Công ty TLT, ngày 26/3/2017 ông T đã yêu cầu ông T1 là người làm thuê cho ông T đem giao cho ông Đ 10 sản phẩm như đã đăng ký gồm 06 can Nutri và 04 bao Oganic. Do đó tổng số tiền ông Đ thiếu ông T là 112.925.000 đồng.
Ngày 30/5/2017, Công ty TLT lập danh sách tổng hợp về việc khách hàng dự bốc thăm trúng thưởng xác nhận có tên ông Đ với nhận 5 phiếu bốc thăm trúng thưởng do đã đăng ký mua 10 sản phẩm gồm 06 can Nutri và 04 bao Oganic. Đến ngày 09/6/2017, Công ty TLT tổ chức bốc thăm trúng thưởng tại nhà ông Võ Văn B lúc này ông Đ nhận 05 phiếu bốc thăm theo danh sách tổng hợp ngày 30/5/2017 xác nhận khách hàng mua sản phẩm của Công ty TLT. Lúc này ông Đ cũng không có ý kiến gì về việc chưa nhận 10 sản phẩm gồm 06 can Nutri và 04 bao Oganic theo danh sách đăng ký. Sau đó ông Đ bốc thăm trúng thưởng được xe honda trị giá 17.000.000đồng. Ông Đ cho rằng không nhận xe để trừ tiền vào khoản nợ do ông Đ thiếu ông T. Do đó số tiền nợ 112.925.000đồng trừ giá trị chiếc xe Honda trúng thưởng là 17.000.000đồng. Số tiền ông Đ còn nợ là 95.925.000 đồng.
Đến ngày 08/8/2017, ông Đ đem 70.000.000đồng đến trả cho ông T. Do đó ông Đ còn nợ ông T 25.925.000đồng. Án sơ thẩm buộc ông Đ trả cho ông T số tiền nợ mua phân, thuốc trừ sâu là 25.925.000 đồng là có căn cứ theo quy định tại Điều 440 Bộ luật dân sự 2015.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Đ cũng không xuất trình được chứng cứ nào mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí phúc thẩm: Do không chấp nhận kháng cáo nên ông Đ phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các quyết định khác của án sơ thẩm về án phí dân sự sơ thẩm; về hoàn trả tiền nộp tạm ứng án phí sơ thẩm; về lãi suất chậm thi hành án không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành.
Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ Luật tố tụng Dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn Đ. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 41/2018/DSST ngày 08 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm.
Áp dụng Điều 440 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T.
Buộc ông Nguyễn Văn Đ phải trả cho ông Nguyễn Văn T số tiền nợ mua phân, thuốc trừ sâu là 25.925.000 đồng (Hai mươi lăm triệu chín trăm hai mươi lăm ngàn đồng).
2. Về án phí phúc thẩm: Buộc ông Nguyễn Văn Đ phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Được khấu trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo các biên lai thu số 0009347 ngày 12/11/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Vũng Liêm. Ông Đ đã nộp đủ.
3. Các quyết định khác của án sơ thẩm về án phí dân sự sơ thẩm; về hoàn trả tiền nộp tạm ứng án phí sơ thẩm; về lãi suất chậm thi hành án không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 16/2019/DSPT ngày 13/02/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản
Số hiệu: | 16/2019/DSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 13/02/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về