TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỚN QUẢN, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 16/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/03/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG
Trong ngày 26 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 334/2017/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 10 năm 2017 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 09/02/2018 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Thị P – Sinh năm 1990
Nơi cư trú: Tổ 03, ấp T, xã P, huyện H, tỉnh B.
Bị đơn: Anh Điểu T – Sinh năm 1987
Địa chỉ: Tổ 03, ấp T, xã P, huyện H, tỉnh B.
(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 11/10/2017, bản tự khai ngày 18/10/2017,các biên bản hòa giải, tại phiên tòa nguyên đơn chị Thị P trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Thị P và anh Điểu T tự nguyện kết hôn và đăng ký kết hôn vào ngày 11/01/2010 tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã Phước An, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phú khoảng 01năm vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống và hay cãi vả, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2012 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị Thị P yêu cầu được ly hôn với anh Điểu T.
Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Thị Yến N, sinh ngày 21/11/2009 đang sống chung với chị P, vợ chồng không nhận ai làm con nuôi. Hiện tại chị P không mang thai. Khi ly hôn chị P yêu cầu trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu anh Điểu T cấp dưỡng nuôi con chung.
Tài sản chung chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng anh Điểu T không đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hớn Quản tham gia phiên tòa phát biểu:
Việc tuân thủ pháp luật của thẩm phán và Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hớn Quản không có ý kiến gì thêm.
Về nội dung vụ án: Căn cứ tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Thị P đối với anh Điểu T. Về con chung giao con chung tên Thị Yến N, sinh ngày 21/11/2009 cho chị Thị P trực tiếp nuôi dưỡng, anh Điểu T không cấp dưỡng nuôi con chung, về tài sản chung và nợ chung không có, đương sự không yêu cầu nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Căn cứ Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và yêu cầu của nguyên đơn về việc ly hôn với anh Điểu T có nơi cư trú tại xã Phước An, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước thì đây là vụ án ly hôn, tranh chấp nuôi con chung thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước.
Tại phiên tòa vắng mặt bị đơn là anh Điểu T, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hớn Quản, nguyên đơn là chị Thị P đề nghị Hội đồng xét xử vắng mặt bị đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập đến tòa án viết bản trình bày ý kiến, các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Điểu T không đến tòa án làm việc đồng thời vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 mà không có lý do chính đáng nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Thị P và anh Điểu T là hôn nhân hợp pháp, các đương sự có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phước An, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước. Chị Thị P cho rằng vợ chồng có nhiều mâu thuẫn trầm trọng và và đã sống ly thân từ năm 2012 cho đến nay. Tình cảm vợ chồng không còn nên chị Thị P yêu cầu ly hôn với anh Điểu T. Hội đồng xét xử xét thấy: Theo biên bản xác minh tại địa phương ngày 09/11/2017 thì về quan hệ hôn nhân giữa chị Thị P và anh Điểu T trong cuộc sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do vợ chồng sống không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống và thường xuyên cãi nhau, có lần anh Điểu T đánh đập chị Thị P nên tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt không thể hàn gắn được, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2012. Ngoài ra ý chí của chị P về việc chấm dứt quan hệ hôn nhân với anh T là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Thị P về việc chấm dứt quan hệ hôn nhân với anh Điểu T.
[3].Về con chung: Con chung tên Thị Yến N, sinh ngày 21/11/2009 hiện tại đang sống chung với chị P. Tại phiên tòa chị P trình bày chị đang là người nuôi dưỡng, chăm sóc con chung nên có nguyện vọng tiếp tục được nuôi con chung, anh Điểu T không đến tòa án đề trình bày ý kiến của mình về con chung. Hội đồng xét xử xét thấy con chung đang sống với chị P và nguyện vọng của con chung là sống với mẹ nên cần giao con chung cho chị P tiếp tục nuôi dưỡng.
Ghi nhận sự tự nguyện của chị Thị P về việc không yêu cầu anh Điểu T cấp dưỡng nuôi con chung.
[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5]. Về án phí: Chị Thị P chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Khoản 01 Điều 28, Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 68 Bộ luật dân sự năm 2015.
Áp dụng các điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng Án phí và Lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Thị P và anh Điểu T.
Giấy chứng nhận kết hôn số 03, quyển số 01/09-2010 ngày 11/01/2010 của Ủy ban nhân dân xã Phước An, huyện Hớn Quản hết giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.
2. Về con chung: Giao con chung Thị Yến N, sinh ngày 21/11/2009 cho chị Thị P trực tiếp nuôi dưỡng.
Anh Điểu T có quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai có quyền cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con chưa thành niên, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con khi cần thiết.
3. Về cấp dưỡng nuôi con: Không xem xét.
4. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét.
5. Về án phí: Chị Thị P chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0012373 ngày 18/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước.
6. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 16/2018/HNGĐ-ST ngày 26/03/2018 về Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung
Số hiệu: | 16/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hớn Quản - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/03/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về