Bản án 16/2017/HSST ngày 28/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 16/2017/HSST NGÀY 28/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 28 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 18/2017/HSST ngày 15 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2017/HSST - QĐ ngày 15 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo.

Lò Văn  M (Tên gọi khác: Không); Sinh năm 1990 tại tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: Bản S1, xã S, thành phố L, tỉnh Lai Châu; Số CMND: 045101855; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Giấy; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Lò Văn S, sinh năm 1970 và bà Phan Thị M, sinh năm 1969; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 28/8/2008 bị cáo bị Tòa án nhân dân thị xã Lai Châu (nay là Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu), tỉnh Lai Châu xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, hiện đã được xóa án tích. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/10/2017, tạm giam từ ngày 09/10/2017, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 06/10/2017 tại bản S2, xã S, thành phố L, tỉnh Lai Châu, Lò Văn M đang cầm trên tay phải 01 gói Heroine được gói ngoài bằng mảnh nilon màu hồng, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu phát hiện, thu giữ.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn M đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Về các vấn đề khác của vụ án: 

Theo lời khai của bị cáo Lò Văn M, nguồn gốc Heroine bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu thu giữ là do M mua của một người đàn ông dân tộc Mông (M không biết tên, tuổi, đị chỉ) với giá 100.000 đồng vào ngày 06/10/2017. Kết quả điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của người đàn ông này là ai, việc mua bán không có người chứng kiến, trong hồ sơ không có tài liệu khác để chứng minh, vì vậy không đề cập xử lý.

Tại kết luận giám định số 409/GĐ- KTHS ngày 10/10/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 01 mẫu chất bột khô, vón cục, màu trắng thu giữ của Lò Văn M trong quá trình bắt quả tang gửi đến giám định có trọng lượng là 0,1 gam là Heroine.

Tại bản cáo trạng số 60/KSĐT - MT ngày 15/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu đã truy tố bị cáo Lò Văn M về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lò Văn M phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14: Xử phạt bị cáo Lò Văn M từ 12 tháng đến 16 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/10/2017. Áp dụng khoản 5 điều 194 Bộ luật hình sự miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về các quyết định nêu trên.

Tại lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 06/10/2017 tại bản S2, xã S, thành phố L, tỉnh Lai Châu, Lò Văn M có hành vi cất giấu trái phép 0,1 gam Heroine trên người nhằm mục đích sử dụng cho bản thân thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu phát hiện, bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mấ trật tự trị an tại địa phương. Bản thân bị cáo cũng nhận thức được việc cất giấu trái phép Heroine là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn thỏa mãn nhu cầu của bản thân nên vẫn có ý thực hiện. Bị cáo là người có đủ năng lực pháp luật để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Do đó, hành vi nêu trên của bị cáo M đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Vì vậy, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo Lò Văn M có nhân thân xấu thể hiện ngày 28/8/2008 bị cáo bị Tòa án nhân dân thị xã Lai Châu (nay là Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu), tỉnh LaiChâu xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, hiện đã được xóa án tích. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Do chính sách pháp luật thay đổi: Hình phạt đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là từ 01 đến 05 năm giảm nhẹ hơn mức hình phạt theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định là từ hai năm đến bảy năm. Do vậy, Hội đồng xét xử cần áp dụng có lợi cho bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị Quyết số 41/2017/QH14.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để có cơ hội cai nghiện, răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: 0,1 gam Heroine, Cơ quan điều tra đã lấy toàn bộ để giám định và không hoàn lại mẫu vật nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lò Văn M phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14: Xử phạt bị cáo Lò Văn M 16 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/10/2017.

3 Về án phí:

Áp dụng điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 16/2017/HSST ngày 28/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:16/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;