Bản án 16/2017/HNGĐ-ST ngày 27/07/2017 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 16/2017/HNGĐ-ST NGÀY 27/07/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 27/7/2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 52/2017/TLST-HNGĐ, ngày 27 tháng 02 năm 2017 về “Tranh  chấp ly hôn”  theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2017/QĐST-HNGĐ ngày 27/6/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2017/QĐXX-ST ngày 18 tháng 7 năm 2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Kim L, sinh năm 1987. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn TL1, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Trú tại: Buôn ĐII, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Hồ Đăng Ph, sinh năm: 1980.Trú tại:Thôn TL1, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 23 tháng 02 năm 2017, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Lê Thị Kim L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh Hồ Đăng Ph kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân  xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 27/02/2006. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị L và anh Phú sống hạnh phúc và có hai con chung. Nhưng từ năm 2013, anh Phú và chị L phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh Phú thường xuyên uống rượu, không lo làm ăn và quan hệ bất chính với người phụ nữ khác dẫn đến hai vợ chồng cãi nhau nên chị L và hai con đã về sinh sống cùng cha mẹ đẻ tại buôn ĐII, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk từ tháng 02 năm 2013. Đến khoảng tháng 8 năm 2013, anh Phú có đến nhà cha mẹ đẻ chị L để xin lỗi và hai bên đã tự hòa giải với nhau nhưng chị L và hai con vẫn sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ. Anh Ph có lên thăm mẹ con chị L và ở lại vài ngày nhưng mỗi lần đến thăm, anh Phú không chịu làm ăn, phụ giúp vợ con mà tiếp tục đi uống  rượu và đánh bi da cùng bạn bè rồi về nhà chửi vợ, con, xúc  phạm danh dự  nhân phẩm của chị.  Từ tháng 01 năm 2016 đến nay, chị  và  anh Phú  sống ly thân, không quan tâm gì nhau. Chị L cảm thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể hàn gắn được nên chị  làm đơn khởi  kiện  yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hồ Đăng Ph. 

Về con chung: Trong thời gian chung sống, chị L xác nhận chị và anh Ph có 02 con chung là cháu Hồ Đăng Q, sinh ngày 09/11/2006 và cháu Hồ Đăng H, sinh ngày 13/01/2012. Hiện nay hai cháu đang sinh sống cùng chị L và chị tôn trọng nguyện vọng cháu Q muốn ở với bố hoặc mẹ. Chị L có nguyện vọng nhận nuôi cháu Q, cháu H để  hai cháu thuận lợi trong việc học  tập, sinh hoạt và yêu cầu anh Hồ Đăng Ph phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai con chung với mức: Mỗi cháu 1.000.000đ/tháng đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, ngày 24 tháng 7 năm 2017, chị  L làm đơn rút  một  phần yêu cầu khởi  kiện và  không yêu cầu anh Ph phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lê Thị Kim L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Toà án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk đã tống đạt giấy báo, thông báo thụ lý vụ án cho nguyên đơn, bị đơn, tiến hành xác minh thu thập chứng cứ, mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và các phiên hoà giải theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, anh Hồ Đăng Ph không hợp tác với Toà án về việc giải quyết vụ án, không có ý kiến trình bày cũng như phản tố đối với yêu cầu của nguyên đơn.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm về việc chấp hành pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự đồng thời phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Thẩm phán, HĐXX và nguyên đơn đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 trong quá trình giải quyết vụ án. Đối với bị đơn anh Hồ Đăng Ph vắng mặt là vi phạm quy định về quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 217, khoản 3 Điều 218, Điều 219, Điều 227; Điều 228, khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lê Thị  Kim L.

Về án phí: Chị Lê Thị  Kim L phải chịu án phí ly hôn sơ  thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định về nội dung vụ án như sau:

[1] Về hình thức: Căn cứ đơn xin ly hôn ngày 23/2/2017, của chị Lê Thị Kim L, Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk  xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Kiện tranh chấp về ly hôn” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[2] Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk đã giao thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập đương sự và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và phiên hòa giải cho các đương sự theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Căn cứ theo Điều 203, 204, 220 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk lập hồ sơ và ra quyết định xét xử vụ án đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật.

Đối với anh Hồ Đăng Ph, Toà án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk tiến hành triệu tập hợp lệ, tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử cho các đương sự đến lần thứ hai nhưng bị đơn anh Hồ Đăng Ph vắng mặt không có lý do. Theo quy định tại các Điều 203; Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Toà án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Kim L và anh Hồ Đăng Ph có đăng ký kết hôn ngày 27/02/2006 tại Uỷ ban nhân dân xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk trên cơ sở tự nguyện. Quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh Ph là hợp pháp. Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng chị L và anh Ph hạnh phúc và có hai con chung. Từ năm 2013, vợ chồng anh, chị bắt đồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh Phú thường  xuyên uống  rượu, không có trách nhiệm với gia đình. Chị và hai con đã về sống cùng cha mẹ tại buôn ĐII, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk và sống ly thân từ đầu năm 2016 cho đến nay.

Theo kết quả xác minh tại địa phương ngày 08/6/2017 và ngày 20/6/2017: Anh Hồ Đăng Ph làm nông và dịch vụ đám cưới, hiện nay vợ chồng anh Ph và chị L đã sống ly thân và hai người cũng không quan tâm, chăm sóc gì đến nhau. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh Ph đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Kim L, cho chị L được ly hôn với anh Hồ Đăng Ph là có căn cứ pháp luật.

[4] Về con chung: Trong thời gian chung sống, chị Lê Thị Kim L và anh Hồ Đăng Ph có hai con chung: Cháu Hồ Đăng Q (sinh ngày 09/11/2006) và cháu Hồ Đăng H (sinh ngày 13/01/2012). Hiện nay hai cháu đang sinh sống cùng chị L và nguyện vọng của cháu Q là muốn được sống cùng với mẹ. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81, khoản 1, khoản 3 Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu Hồ Đăng Q và cháu Hồ Đăng H cho chị Lê Thị Kim L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi các cháu Hồ Đăng Q và cháu Hồ Đăng H đủ 18 tuổi và có khả năng lao động để tự nuôi sống mình. Anh Hồ Đăng Ph có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung, không ai được ngăn cản thực hiện quyền này.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con chung:  Ngày 24 tháng 7 năm 2017, chị Lê Thị Kim L làm đơn xin rút một phần yều cầu khởi kiện và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Lê Thị Kim L không yêu cầu anh Hồ Đăng Ph phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Căn cứ khoản 1 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử chấp nhận việc rút một phần yêu cầu khởi kiện này và đình chỉ về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lê Thị Kim L không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, khoản 1 Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án, chị Lê Thị Kim L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Xét quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa là có căn cứ và đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm d khoản 3 Điều 203, khoản 1 Điều 217, khoản 3 Điều 218, Điều 219, Điều 220, Điều 227; Điều 228, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2916 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án;

Tuyên xử: Chấp nhận một phần khởi kiện của nguyên đơn chị  Lê Thị Kim L.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho Lê Thị Kim L được ly hôn với anh Hồ Đăng Ph.

2. Về con chung: Giao cháu Hồ Đăng Q (sinh ngày 09/11/2006) và cháu Hồ Đăng H (sinh ngày 13/01/2012), cho chị  Lê Thị Kim L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi cháu Q, cháu H đủ 18 tuổi và có khả năng tự lao động để nuôi sống mình. Anh Hồ Đăng Ph được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung, không ai được quyền ngăn cản.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Ngày 24 tháng 7 năm 2017, chị Lê Thị Kim L rút một phần yều cầu khởi kiện và không yêu cầu anh Hồ Đăng Ph phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Hội đồng xét xử đình chỉ về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lê Thị Kim L không yêu cầu nên Tòa án không đề cập giải quyết.

5. Về án phí: Chị Lê Thị Kim L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đồng đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk theo biên lai số AA/2014/0042755 ngày 24 tháng 02 năm 2017.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn anh Hồ Đăng Ph vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

360
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 16/2017/HNGĐ-ST ngày 27/07/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:16/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;