TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 161/2020/HS-ST NGÀY 12/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 12 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 176/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 190/2020/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 7 năm 2020, đối với các bị cáo:
1. Trần Thương Thanh T, sinh năm 1990, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: 57/5C đường Đ, Phường M, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: không có nơi cư trú ổn định; trình độ văn hóa: 4/12; nghề nghiệp: Thợ sắt; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; cha tên Trần Văn T, sinh năm 1954 và mẹ tên Nguyễn Thị C, sinh năm 1962; gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con út;
Tiền án, tiền sự: không
Nhân thân: Năm 2014 bị Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh tuyên phạt 03 năm tù giam về tội Cướp giật tài sản theo Bản án số 127/2014/HSST ngày 14-7-2014, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 31-8-2015.
Bị cáo bị bắt ngày 23 tháng 3 năm 2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố V (bị cáo có mặt).
2. Lê Quốc T, sinh ngày 06-6-2001 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: 153/87/11 đường Đ, Phường M, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: không có nơi cư trú ổn định; trình độ văn hóa: 6/12; nghề nghiệp: Bảo vệ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên Chúa; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; cha tên Lê Quốc V và mẹ bị cáo không nhớ rõ họ tên vì đã bỏ đi khi bị cáo còn rất nhỏ; gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con út;
Tiền án, tiền sự: không
Bị cáo bị bắt ngày 23 tháng 3 năm 2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố V (bị cáo có mặt).
- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Đoan T, sinh năm 1976, địa chỉ: Ấp 3, xã T, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Phạm Huyền V, sinh năm 2001; địa chỉ: Phòng trọ đường N, Phường B, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 12-03-2020 Trần Thương Thanh T từ thành phố V lên Thành phố Hồ Chí Minh để gặp Lê Quốc T (do cả hai trước đây ở gần nhà nhau nên quen biết nhau) và cùng thuê nhà nghỉ thuộc đường U, Phường M, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh để ở. Tại nhà nghỉ, T thấy dưới nệm có hai đoạn đoản phá khóa xe máy, T đưa cho Txem rồi cả hai bàn bạc cùng nhau xuống thành phố V trộm cắp xe máy bán lấy tiền tiêu xài. Do T không có xe để đi lại, T đã nhờ T chở về nhà, T đồng ý chở T và Nguyễn Phạm Huyền V sinh năm 2001; trú tại: Phòng trọ đường N, Phường B, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (sống như vợ chồng với Thắng) bằng xe mô tô không nhớ biển số xe về xã L, thành phố V. Tại đây, cả ba thuê một nhà trọ tại thôn 1, xã L để nghỉ. Sau đó cả ba đến quán cà phê đối diện Công ty Vinaconex thuộc thôn 3, xã L, thành phố V, T và T vào quán cà phê uống nước còn V lấy xe đi. T nói với T đi vào trong Công ty Vinaconex (do thời gian trước T có làm việc tại công ty này) mượn tiền của người quen. T nói với T “chỗ này làm được” (tức trộm cắp được) T hiểu ý rồi cả hai đi vào trong công ty giả vờ, tìm một người trong công ty tên Trang nhưng được thông báo anh Trang đã đi xuống công trình. Cả hai cùng đi vào trong bãi để xe của công nhân trong công ty, T nói với T “coi bảo vệ dùm em” T đồng ý. T đi ra chỗ bảo vệ hay ngồi để cảnh giới còn T đi vào chỗ bãi gửi xe để lấy trộm xe, T đã dùng đoản bẻ khóa xe (mang sẵn trong người) phá khóa xe máy gắn biển số 65H1-294.11 nhãn hiệu Honda Future, màu sơn: xám đen của chị Nguyễn Thị Đoan T (sinh năm 1976; trú tại: ấp 3, xã T, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Sau khi lấy trộm được xe trên, T chở T tới quán cơm gần Công ty Vinaconex, T vào quán còn T lái xe chạy đi. Một lúc sau T gọi cho T thì T nói đang chạy xe về Thành phố Hồ Chí Minh. T quay về nhà trọ. Khoảng 15 giờ cùng ngày T chạy lên Thành phố Hồ Chí Minh, đến cầu Điện Biên Phủ gặp Thắng. T nói đã bán xe trộm cắp cho một người xe ôm (hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch) với giá 9.000.000đ (Chín triệu đồng). T chia số tiền cho T 2.000.000đ (hai triệu đồng), còn lại 7.000.000đ (Bảy triệu đồng) T tiêu cá nhân xài hết.
Tại Cơ quan điều tra, Trần Thương Thanh T và Lê Quốc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại biên bản định giá tài sản số 87/KL-HĐĐG-TTHS ngày 19-6-2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng thành phố V kết luận xe mô tô nhãn hiệu Honda có biển kiểm soát: 65 H1-294.11 trị giá 20.000.000 đồng.
Việc thu giữ tài liệu, đồ vật và xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 bộ đoản khóa, chia làm 3 phần: 01 phần lưỡi, ký hiệu S2 Barker, dài 7,8 cm; 01 phần cán màu đen, dài 7,1 cm đường kính 1,3cm; 01 thanh sắt hình trụ màu trắng, dài 13,3cm, đường kính 0,8cm, là công cụ phạm tội, hiện đã chuyển đến cơ quan Thi hành án dân sự thành phố V chờ xử lý theo quy định của pháp luật.
Về trách nhiệm dân sự trong vụ án: Quá trình điều tra bị hại là chị Nguyễn Thị Đoan T yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền mặt là 33.000.000đ (Ba mươi ba triệu đồng). Tuy nhiên tại phiên tòa, chị T đã thay đổi yêu cầu, cụ thể: Chị T yêu cầu các bị cáo có trách nhiệm liên đới bồi thường cho chị T số tiền 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng), mỗi bị cáo có trách nhiệm bồi thường 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng).
Tại bản cáo trạng số 185/CT-VKS ngày 15-7-2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V đã truy tố bị cáo Trần Thương Thanh T và bị cáo Lê Quốc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng nội dung truy tố về tội danh, khung hình phạt đối với bị cáo Trần Thương Thanh T và bị cáo Lê Quốc T về tội “Trộm cắp tài sản”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17 và Điều 38 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Trần Thương Thanh T từ 18 (mười tám) đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù;
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17 và Điều 38 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Lê Quốc T từ 18 (mười tám) đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù.
Trách nhiệm dân sự: Buộc các bị cáo có trách nhiệm liên đới bồi thường cho bị hại số tiền là 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng).
Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 bộ đoản khóa gồm 3 phần: 01 phần lưỡi, ký hiệu S2 Barker, dài 7,8 cm; 01 phần cán màu đen, dài 7,1 cm đường kính 1,3cm; 01 thanh sắt hình trụ màu trắng, dài 13,3cm, đường kính 0,8cm do không còn giá trị sử dụng.
Các bị cáo đã khai nhận về toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên; bị cáo T và bị cáo Thắng, mỗi bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại số tiền 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng). Khi nói lời sau cùng, các bị cáo thể hiện ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai nhận tội của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào ngày 14-03-2020, tại Công ty Vinaconex địa chỉ: thôn 3, xã L, thành phố V, Trần Thương Thanh T và Lê Quốc T đã cùng nhau bàn bạc thực hiện hành vi trộm cắp, T ngồi cảnh giới bảo vệ còn T đi vào chỗ bãi gửi xe của công nhân Công ty để lấy trộm xe, T đã dùng đoản bẻ khóa xe (mang sẵn trong người) phá khóa xe máy gắn biển số 65H1-294.11 nhãn hiệu Honda Future, màu sơn: xám đen của chị Nguyễn Thị Đoan T. Sau khi lấy trộm được xe trên, T chở T tới quán cơm gần Công ty Vinaconex, T vào quán còn T lái xe chạy về Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 15 giờ cùng ngày T chạy lên Thành phố Hồ Chí Minh, đến cầu Điện Biên Phủ gặp T. T nói đã bán xe trộm cắp cho một người xe ôm (hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch) với giá 9.000.000đ (Chín triệu đồng). T chia số tiền cho T 2.000.000đ (hai hiệu đồng), còn lại 7.000.000đ (Bảy triệu đồng) T tiêu cá nhân xài hết. Theo biên bản định giá tài sản số 87/KL ngày 19-6-2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng thành phố V kết luận xe mô tô nhãn hiệu Honda có biển kiểm soát: 65H1-294.11 trị giá 20.000.000đ (hai mươi hiệu đồng). Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Hành vi các bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Các bị cáo mặc dù có sự thống nhất trước việc thực hiện hành vi phạm tội nhưng sự cấu kết giữa các bị cáo chưa đến mức chặt chẽ nên hành vi các bị cáo thực hiện trong vụ án chỉ mang tích chất đồng phạm giản đơn.
Đối với người xe ôm đã mua xe mô tô gắn biển số 65H1-294.11 từ T do chưa xác định được lai lịch nên đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ đủ căn cứ xử lý sau.
[3] Về tính chất, mức độ đối với hành vi phạm tội của các bị cáo: Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây ra là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Các bị cáo là những thanh niên đã trưởng thành biết việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, bị nhà nước xử lý nghiêm minh nhưng do lười lao động, tham lam lợi ích vật chất nên các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích có tiền tiêu xài cá nhân. Riêng bị cáo T, đã từng bị xử phạt về hành vi “Cướp giật tài sản”, sau khi được đặc xá trở về không lấy đó làm bài học mà còn tiếp tục dấn thân vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm, tuyên mức hình phạt phù hợp, tương xứng với hành vi, tính chất, mức độ phạm tội nhằm cải tạo, giáo dục riêng từng bị cáo, đồng thời bảo đảm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[4.1] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ:
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.
Đối với bị cáo Lê Quốc T phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại yêu cầu các bị cáo liên đới bồi thường số tiền 30.000.000đ (Ba mươi ba triệu đồng). Các bị cáo đồng ý liên đới bồi thường cho bị hại số tiền 30.000.000đ (Ba mươi ba triệu đồng) nên ghi nhận, buộc các bị cáo bồi thường; trong đó mỗi bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng).
[6] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy công cụ liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo là 01 bộ đoản khóa gồm 3 phần: 01 phần lưỡi, ký hiệu S2 Barker, dài 7,8 cm; 01 phần cán màu đen, dài 7,1 cm đường kính 1,3cm; 01 thanh sắt hình trụ màu trắng, dài 13,3cm, đường kính 0,8cm do không còn giá trị sử dụng.
[7] Đối với Nguyễn Phạm Huyền V, là người sinh sống chung với bị cáo T như vợ chồng, không tham gia trộm cắp tài sản với T và T, do đó không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự.
[8] Về án phí:
- Án phí hình sự: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
- Án phí dân sự: Bị cáo T và bị cáo T, mỗi bị cáo phải nộp 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng).
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Thương Thanh T và bị cáo Lê Quốc T phạm tội "Trộm cắp tài sản".
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17 và Điều 38 Bộ luật hình sự.
- Xử phạt: Bị cáo Trần Thương Thanh T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23 tháng 3 năm 2020.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17 và Điều 38 Bộ luật hình sự.
- Xử phạt: Bị cáo Lê Quốc T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23 tháng 3 năm 2020.
2. Trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 591 Bộ luật Dân sự năm 2015. Ghi nhận và buộc các bị cáo có trách nhiệm liên đới bồi thường cho chị Nguyễn Thị Đoan T số tiền 30.000.000đ (Ba mươi ba triệu đồng), trong đó mỗi bị cáo phải bồi thường số tiền là 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng).
Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự cho đến khi thi hành án xong
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy công cụ liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo là 01 bộ đoản khóa gồm 3 phần: 01 phần lưỡi, ký hiệu S2 Barker, dài 7,8 cm; 01 phần cán màu đen, dài 7,1 cm đường kính 1,3cm; 01 thanh sắt hình trụ màu trắng, dài 13,3cm, đường kính 0,8cm do không còn giá trị sử dụng.
Thực hiện xử lý vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 183/BB.THA ngày 06 tháng 8 năm 2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố V.
4. Án phí:
- Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Thương Thanh T và bị cáo Lê Quốc T, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng);
- Án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo T và bị cáo Thắng, mỗi bị cáo phải nộp 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng).
5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền kháng cáo vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo nêu trên tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành.
Bản án 161/2020/HS-ST ngày 12/08/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 161/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/08/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về