TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LONG MỸ, TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 161/2020/DS-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ - HỤI
Ngày 29 tháng 9 năm 2020 tại Tòa án nhân dân Thị xã L Mỹ, tỉnh Hậu Giang mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 61/2020/TLST-DS, ngày 05 tháng 5 năm 2020 về việc tranh chấp hợp đồng dân sự - hụi, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 159/2020/QĐXXST–DS, ngày 11 tháng 9 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 53/2020/QĐST-DS ngày 21 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:Khu vực 4, A, thị xã M, tỉnh Hậu Giang 1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị L, sinh năm: 1962.
Địa chỉ: . Có mặt.
2. Bị đơn: Bà Trần Thị N, sinh năm: 1974.
Địa chỉ: Khu vực 4, A, thị xã M, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 20/6/2019 và tại phiên tòa nguyên đơn bà Huỳnh Thị L trình bày: Vào ngày 09/02/2012 âm lịch bà có tham gia dây hụi 1.000.000 đồng/10 ngày do bà N làm chủ. Hụi có 47 phần bà tham gia 01 phần đóng được 23 lần với số tiền 12.500.000 đồng. Do bà N tuyên bố bể hụi nên bà và bà N thống nhất bà N trả lại cho bà số tiền 12.500.000 đồng và bà N đã trả được 500.000 đồng, còn nợ lại 12.000.000 đồng. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà N trả lại cho bà số tiền 12.000.000 đồng.
Đối với bị đơn bà Trần Thị N đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do nên chưa có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án, từ khi tòa án thụ lý vụ án đến nay Thẩm phán được phân công đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự như: Xác định mối quan hệ tranh chấp, tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng, gửi quyết định xét xử cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho những người tham gia tố tụng đúng theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng theo thủ tục quy định về phiên toà sơ thẩm. Đối với các đương sự: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên toà hôm nay bà L đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70,71, Bộ luật tố tụng dân sự. Bà N chưa thực hiện đúng quy định tại các Điều 70,72, Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã L Mỹ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục: Đối với bị đơn bà Trần Thị N đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt bà N.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây la vu an “Tranh chấp hợp đồng dân sự – hụi” theo Điều 26, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vu an thuôc thâm quyền giai quyết cua Toa an.
[3] Nội dung vụ án:
Theo bà Huỳnh Thị L trình bày năm 2012 bà có tham gia chơi hụi do bà N làm chủ, tổng số tiền bà đã đóng là 12.500.000 đồng, do bà N bể hụi nên bà và bà N thỏa thuận bà N trả lại cho bà 12.500.000 đồng nhưng bà N chỉ trả được 500.000 đồng còn nợ lại 12.000.000 đồng, nay bà yêu cầu bà N trả số tiền 12.000.000 đồng. Đối với bà N đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do nên chưa có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của bà L. Việc tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp hợp đồng dân sự – hụi thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
[4] Qua thẩm vấn công khai tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận thấy: Ngày 09/02/2012 âm lịch bà L có tham gia dây hụi 1.000.000 đồng/10 ngày do bà N làm chủ, hụi có 47 phần, bà tham gia 01 phần trong danh sách chơi hụi ghi tên Mợ Mum, bà đã đóng được 23 lần, số tiền đóng từng lần bà không nhớ cụ thể bao nhiêu nhưng tổng số tiền bà đã đóng là 12.500.000 đồng, theo thỏa thuận chơi hụi thì bà được hưởng là 23.000.000 đồng. Do bà N tuyên bố bể hụi nên bà và bà N thỏa thuận bà N trả cho bà số tiền hụi thực đóng là 12.500.000 đồng nhưng bà N chỉ trả được 500.000 đồng, còn nợ 12.000.000 đồng. Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình bà L có cung cấp bản photo biên nhận ngày 29/5/2013 âm lịch (do bà đã làm thất lạc bản gốc) nội dung biên nhận thể hiện tất cả vốn tiền hụi 12.500.000 đồng cho mợ 4 Mum , hàng tháng trả 500.000 đồng bắt đầu trả từ ngày 29/5/2013 âm lịch có ghi tên N, bà L thừa nhận bà N đã trả được 500.000 đồng, còn nợ 12.000.000 đồng. Chứng cứ bà L cung cấp là bản photo không có giá trị chứng minh. Tuy nhiên bà Phan Thị Sương có tham gia dây hụi này cùng với bà L do bà N làm chủ, năm 2014 bà Sương có đơn tố cáo bà N về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là số tiền hụi bà đóng cho bà N tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện L Mỹ (nay là thị xã L Mỹ).
[5] Tại biên bản lấy lời khai ngày 26/12/2014 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện L Mỹ (nay là thị xã L Mỹ) bà N thừa nhận: Dây hụi ngày 09/02/2012 bà còn nợ Mợ Mum (bà Huỳnh Thị L) số tiền vốn đóng là 12.500.000 đồng. Lời thừa nhận này của bà N phù hợp với biên nhận ngày 29/5/2013 âm lịch nên Hội đồng xét xử căn cứ lời thừa nhận ngày 26/12/2014 của bà N buộc bà N có nghĩa vụ trả cho bà L số tiền hụi còn nợ 12.000.000 đồng.
[6] Tại phiên tòa Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Đương sự còn phải chịu án phí theo quy định;
[8] Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 3 Điều 26, Điều 35, 91, 147, 227, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Căn cứ: Điều 476, 479 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 .
Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị L.
Buộc bị đơn bà Trần Thị N có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn bà Huỳnh Thị L số tiền hụi còn nợ là 12.000.000 đồng (mười hai triệu đồng).
Kể từ ngày bà Huỳnh Thị L có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án. Lãi suất chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468, nếu không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn bà Trần Thị N phải chịu 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng).
Bà Huỳnh Thị L được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000377 ngày 05/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã L Mỹ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nguyên đơn bà Huỳnh Thị L có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 29/9/2020. Bị đơn bà Trần Thị N có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương nơi cư trú.
Bản án 161/2020/DS-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp hợp đồng dân sự - hụi
Số hiệu: | 161/2020/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Long Mỹ - Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về