Bản án 161/2019/HN&GĐ-ST ngày 21/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HOÁ, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 161/2019/HN&GĐ-ST NGÀY 21/06/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hoằng Hoá mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 100/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2019/QĐXX-ST ngày 07 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Q - sinh năm 1995

Nơi ĐKHKTT: Thôn L, xã X, huyện H, Tỉnh Thanh Hóa

Nơi ở hiện nay: số nhà X, phố D, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Bị đơn: Anh Lê Bá T- sinh năm 1992

Địa chỉ: Thôn L, xã X, huyện Hoằng Hóa, Tỉnh Thanh Hóa. Tại phiên toà: có mặt chị Q, vắng mặt anh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 29/3/2019, bản tự khai và đơn không yêu cầu tiến hành mở phiên hòa giải cùng ngày 25/4/2019, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Q đã khai: giữa chị và anh Lê Bá T - sinh năm 1992 quê thôn L, xã X, huyện H – được tìm hiểu nhau một thời gian, rồi tự nguyện kết hôn, giấy chứng nhận đăng ký kết hôn do UBND xã X, huyện H cấp ngày 16/10/2017.

Sau khi cưới cuộc sống vợ chồng nhiều mâu thuẫn do anh T không chăm lo cho gia đình, hễ có mâu thuẫn nhỏ là đánh đuổi vợ , nhiều lần như vậy không chịu đựng được nên tôi đã mang con về quê ngoại ở thành phố Thanh Hóa sinh sống từ tháng 3 năm 2019 cho đến nay. Cho đến nay tôi xét thấy không còn tình cảm gì với anh T, không muốn hàn gắn gia đình nên làm đơn xin ly hôn yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh T.

Về con: Vợ chồng có một con chung là cháu Lê Thị Kim O, sinh ngày 27/11/2018, tôi xin được nuôi con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng.

Về tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung, không công nợ chung nên không yêu cầu giải quyết.

Do tình cảm giữa tôi và anh T không còn, nên yêu cầu Tòa án không tiến hành phiên hòa giải.

Sau khi Thụ lý vụ án, Tòa án đã ra giấy triệu tập nhưng anh T không có mặt. Tại bản khai ngày 31/5/2019 mẹ đẻ của anh là bà Lê Thị L đã trình bày: Con trai của bà là Lê Bá T đã kết hôn với chị Nguyễn Thị Q từ năm 2017 có đăng ký kết hôn, sau ngày cưới vợ chồng chung sống với gia đình bà, sinh con xong bà nuôi cho 4 tháng, mâu thuẫn giữa mẹ chồng nàng dâu là không có, mâu thuẫn giữa vợ chồng cũng không có biểu hiện gì nhưng có lẽ do mấy ngày tết T đi chơi bài rồi vợ chồng khúc mắc âm ỉ từ đó, không bên nào nói với bên nào gia đình cũng không biết sau đó tháng 2 năm 2019 thì Q xếp quần áo đem con về bên ngoại ở xã D, thành phố TH. Sau đó gia đình bà chủ động lên mấy lần nói chuyện đón cháu đón con về nhưng Q nói là không về nữa và làm đơn ly hôn. Việc Q làm đơn ly hôn gửi đến TAND thì T đã biết, nhưng do T làm ăn ở xa không về được nên thông qua gia đình có nói là không bỏ vợ bỏ con còn Q làm gì thì tùy để pháp luật giải quyết. Hiện nay T đang làm đá trong Miền nam, không có địa chỉ nên gia đình không biết, hồi tháng 3 âm lịch là tháng 4 dương lịch T có về nhưng do biết việc Q gửi đơn ly hôn nên đã chán nản bỏ đi tiếp.

Quan điểm của T là không muốn bỏ vợ nên cũng không muốn đề cấp đến vấn đề con cái, còn quan điểm của gia đình tôi là sau này nếu Q đi lấy chồng thì gia đình xin đem cháu về nuôi. Con chung giữa hai vợ chồng là Lê Thị Kim O sinh 27/11/2018, hiện đang ở với mẹ. Còn tài sản chung riêng thì theo tôi được biết là không có.

Bà L đồng ý nhận toàn bộ các văn bản tố tụng của tòa án để giao lại cho anh Lê Bá T được biết nội dung làm việc của Tòa án.

Ngày 18/6/2019 Tòa án đã mở phiên tòa nhưng anh T vắng mặt; Tại phiên tòa hôm nay anh T tiếp tục vắng mặt; Các văn bản tố tụng đã được tống đạt cho anh Tthông qua gia đình , anh T đã biết rõ nội dung làm việc của Tòa án nhưng không có mặt.

Chị Nguyễn Thị Q vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn với anh T và xin được nuôi con;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài lỉệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa ngày 18/6/2019 anh Lê B á T vắng mặt lần thứ nhất, HĐXX quyết định Hoãn phiên tòa; Tại phiên tòa hôm nay anh T tiếp tục vắng mặt, HĐXX căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 xử vắng mặt bị đơn là anh Lê Bá T;

[2] Về nội dung:

Về Hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Q và anh Lê Bá T kết hôn được cấp giấy CNKH, là hôn nhân hợp pháp. Theo chị Q khai cuộc sống gia đình không hạnh phúc do anh Tâm có hành vi đánh đuổi vợ con mỗi khi mâu thuẫn vợ chồng xảy ra và chị đã ôm con về mẹ đẻ, vợ chồng sống ly thân; bản thân anh T không muốn ly hôn với vợ nhưng anh cố tình vắng mặt để mặc tòa án giải quyết như vậy chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, hai bên không tìm được tiếng nói chung việc chị Q làm đơn xin ly hôn anh là có cơ sở, do vậy HĐXX xét thấy cần xử để chị Q được ly hôn anh Lê Bá T là hoàn toàn phù hợp với tình trạng hôn nhân hiện nay của anh chị.

Về con: Vợ chồng có một con chung là cháu Lê Thị Kim O, sinh ngày 27/11/2018, hiện nay cháu đang ở với mẹ. Cháu dưới 36 tháng tuổi nên giao cho chị Q nuôi con chung.

Về cấp dưỡng: Chị Q không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung, nên không buộc anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cùng chị Q.

Về tài sản: Cả hai không yêu cầu nên không xét.

[3] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Q phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Điều 51, Điều 56 , 81,82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Q được ly hôn anh Lê Bá T.

- Về con: Giao con chung của chị Nguyễn Thị Q và anh Lê Bá T là cháu Lê Thị Kim O, sinh ngày 27/11/2018 cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc; Anh Lê Bá T được quyền qua lại chăm sóc giáo dục nuôi dưỡng con chung không ai được cản trở, nhưng anh T cũng không được lạm dụng quyền thăm nom con để gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi con của chị Q.

-Về cấp dưỡng: Chị Q không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị Q phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hoá theo biên lai thu số AA/2018/ 0005601 ngày 22/4/2019. Chị đã thi hành xong.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Q được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Anh Lê Bá T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 161/2019/HN&GĐ-ST ngày 21/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:161/2019/HN&GĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;