Ngày 22 tháng 11 năm 2017, tại Nhà văn hoá Tổ 8, phường Tân H, thành phố T, tỉnh Q mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 158/2017/HSST ngày 01 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:
VŨ QUỐC H, sinh ngày 24 tháng 6 năm 1970. Trú tại: Hưng K, xã An T, thành phố T, tỉnh Q. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh;Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 11/12; Con ông Vũ Xuân Đ (đã chết) và bà Đặng Thị H-Sinh năm 1950; Có vợ là Lương Thị Quỳnh M (đã ly hôn); Có 01 con, sinh năm 2007.
* Nhân thân: Ngày 25/3/2011, Tòa án nhân dân thành phố T xử phạt 01 năm tù về Tội trộm cắp tài sản (Vũ Quốc H đã chấp hành xong toàn bộ bản án).
* Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/7/2017, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q. Có mặt tại phiên tòa.
NHẬN THẤY
Bị cáo Vũ Quốc H bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Q truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Hồi 09 giờ 15 phúT ngày 18/7/2017; tại trụ sở Công an phường Tân H, thành phố T, tỉnh Q; tổ công tác của Công an phường Tân H, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vũ Quốc H-sinh năm 1970 về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Thu giữ, niêm phong của Hùng 02 gói nhỏ, bên ngoài được gói bằng ni-lon màu xanh, bên trong được gói bằng giấy báo, trong chứa chất bột màu trắng ngà; H khai nhận là Hêrôin, tàng trữ để sử dụng.
Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Vũ Quốc H. Kết quả (+) dương tính (có chất ma túy trong cơ thể H).
Tại Kết luận giám định số 385/GĐKTH ngày 20/7/2017, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, kết luận: Số chất chất bột màu trắng ngà trong 02 gói nhỏ thu giữ của Vũ Quốc H gửi giám định là Hêrôin; trọng lượng 0,311g (không phẩy ba một một gam).
Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 160/QĐ-KSĐT ngày 31 tháng 10 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đã truy tố bị cáo Vũ Quốc H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 Bộ Luật Hình sự.
Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Quốc H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Áp dụng khoản 1 Điều 194; đoạn 1, 2 điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999; Khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 của Bộ Luật Hình sự 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội, xử phạt bị cáo Vũ Quốc H từ 01(một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 76 BLTTHS. Tịch thu tiêu huỷ số Hêrôin thu giữ của bị cáo được niêm phong còn nguyên vẹn.
Ngoài ra, kiểm sát viên còn đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo; tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Tại phiên toà bị cáo Vũ Quốc H khai nhận: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 18/7/2017, H từ nhà đi đến khu vực đầu cầu Nông T, thuộc tổ 7, phường T, thành phố T. Mục đích tìm mua Hêrôin về sử dụng. Tại đây, H mua được 02 gói nhỏ Hêrôin, được gói bên ngoài được gói bằng ni-lon màu xanh, bên trong được gói bằng giấy báo, với số tiền 400.000 đồng của một người đàn ông (không biết tên, địa chỉ nơi ở). Sau đó, khoảng 09 giờ 15 phút cùng ngày, H đến khu vực cổng sau Bệnh viện Đa khoa tỉnh Q thuộc khu vực tổ 16, phường T, thành phố T thì bị Công an phường T phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng. Mục đích Hùng cất dấu số chất ma tuý mà cơ quan Công an thành phố T thu giữ là để sử dụng cho bản thân. Bị cáo nhất trí luận tội của Kiểm sát viên, không tranh luận gì, chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.
XÉT THẤY
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Vũ Quốc H đã đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản khám xét; vật chứng thu giữ; kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Các chứng cứ trên đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 18/7/2017; tại tổ 16 phường T, thành phố T, tỉnh Q; Bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,311g (không phẩy ba một một gam) Hêrôin, mục đích để sử dụng.
Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác; Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Bị cáo có nhân thân xấu ngày 25/3/2011, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang xử phạt 01 năm tù về Tội trộm cắp tài sản. Do vậy HĐXX xét thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù giam nghiêm minh, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và răn đe cho những đối tượng khác, đồng thời góp phần vào công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt HĐXX thấy cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: Quá trình điều tra và tại phiên toà đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có mẹ đẻ được tặng thưởng Huy chương kháng chiến. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Hiện bị cáo bị truy tố xét xử theo khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999 và mức hình phạt được quy định từ 02 năm đến 07 năm, xong tại khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 thì cũng với tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và với trọng lượng Hêrôin mà bị cáo tàng trữ thì mức hình phạt đã được giảm xuống là từ 01 năm đến 05 năm. Trong khi đó tại khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015 quy định “ Điều luật xoá bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới., thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”. Do vậy, căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội về thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015, HĐXX thấy khi lượng hình cần xem xét áp dụng theo hướng có lợi cho bị cáo do có sự thay đổi về pháp luật.
Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma tuý và hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo nhằm mục đích sử dụng, không có mục đích vụ lợi; bị cáo cũng không có thu nhập, tài sản gì nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Vũ Quốc H, ngày 8/8/2017 Công an thành phố T đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, hình thức phạt tiền 750.000đ (bảy trăm năm mươi nghìn đồng).
Đối với đối tượng theo Vũ Quốc H khai đã bán ma túy cho H ở khu vực đầu cầu Nông T, thuộc tổ 7, phường Tân Q, thành phố T, do không xác định được địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ điều tra, xử lý.
*Về vật chứng: Đối với 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký của bị cáo Vũ Quốc H và 05 hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh Q, bên trong có chứa hêrôin là (đối tượng giám định hoàn lại) cần tịch thu tiêu hủy.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Vũ Quốc H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
1. Áp dụng khoản 1 điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999; Khoản 3 Điều 7; Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội Xử phạt bị cáo Vũ Quốc H 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam (18/7/2017) 2. Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ Luật Tố tụng Hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký của bị cáo Vũ Quốc H và 05 hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh Q, bên trong có chứa hêrôin (là đối tượng giám định hoàn lại).
-Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố T và Chi cục thi hành án dân sự thành phố T ngày 13/11/2017.
3. Áp dụng các Điều 99, 231, 234 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Phí và Lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội:
-Bị cáo Vũ Quốc H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
-Bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 161/2017/HSST ngày 22/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 161/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tam Kỳ - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/11/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về