Bản án 1611/2019/HNGĐ-ST ngày 14/11/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1611/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 14 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 178/2018/TLST-HNGĐ, ngày 03 tháng 5 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 4394/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 8664/2019/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thái H, sinh năm 1986 (vắng mặt) Địa chỉ thường trú: Xóm P, xã H, huyện H, tỉnh Nam Định.

Địa chỉ tạm trú: Đường T, Phường P, Quận W, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông R Girdauskas, sinh năm 1975 (vắng mặt) Quốc tịch: Lithuania Địa chỉ: Kaunas, Lithuania, LT-50167, Lithuania. Bà Trần Thái H đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 28/3/2018 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà Trần Thái Hoa trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông R Girdauskas kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 131, Quyển số 01/2012 ngày 04/7/ 2012. Sau khi kết hôn, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Tháng 6/2016, ông R Girdauskas ra nước ngoài làm việc, còn bà vẫn ở lại Việt Nam. Kể từ đó đến nay, bà và ông R Girdauskas không còn chung sống và chỉ liên hệ với nhau qua điện thoại. Do cuộc sống vợ chồng xa cách và bất đồng về quan điểm sống nên vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể giải quyết được. Bà xác nhận hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông R Girdauskas.

Về con chung: Có 01 con chung là trẻ DT Girdauskas, sinh ngày 24/3/2012. Hiện nay trẻ đang sống với bà. Nếu được ly hôn bà H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng trẻ DT Girdauskas cho đến khi trẻ thành niên, bà H không yêu cầu ông R Girdauskas cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Vì bận việc, bà H đề nghị được vắng mặt cho đến khi kết thúc vụ án.

Bị đơn là ông R Girdauskas, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ: Tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo ngày, giờ và địa điểm mở phiên họp hòa giải, phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án thông qua thủ tục ủy thác tư pháp đến Cơ quan có thẩm quyền của Lithuania theo địa chỉ của bị đơn do nguyên đơn cung cấp. Đồng thời, yêu cầu ông R Girdauskas có văn bản gửi Tòa án trình bày ý kiến về việc bà Hoa khởi kiện yêu cầu ly hôn (theo văn bản ủy thác tư pháp số 547/TTTPDS-TA30 ngày 14/8/2018). Tuy nhiên, Cơ quan có thẩm quyền của Lithuania đã không thực hiện được ủy thác tư pháp do không có người nhận tại địa chỉ được yêu cầu. Theo đề nghị của bà H, ngày 09/5/2019 Tòa án có Công văn số 2132/TAND-CV đề nghị Đại sứ quán Việt Nam tại Ba Lan (kiêm nhiệm Lithuania) thực hiện thông báo trên cổng thông tin điện tử của Đại sứ quán để thông báo ngày, giờ, địa điểm mở phiên họp hòa giải, phiên tòa đối với ông R Girdauskas. Đồng thời, Tòa án cũng có văn bản đề nghị thông báo việc ly hôn của bà H và ông R Girdauskas trên kênh dành cho người nước ngoài của Đài phát thanh Trung ương theo quy định. Theo đó, Cơ quan thường trú Đài tiếng nói Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh đã đăng thông báo từ ngày 30/5/2019 đến ngày 01/6/2019. Nhưng đến nay ông R Girdauskas vẫn không có văn bản phản hồi cho Tòa án.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về vụ án: Về tố tụng, trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo trình tự tố tụng của Bộ luật tố tụng dân sự quy định về địa vị tố tụng và đảm bảo quyền lợi cho các đương sự. Về nội dung, Kiểm sát viên phân tích yêu cầu của nguyên đơn xin ly hôn bị đơn và yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là phù hợp và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Xét yêu cầu của nguyên đơn Trần Thái H, Hội đồng xét xử nhận thấy bà H và ông R Girdauskas kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương cấp giấy chứng nhận kết hôn. Vì vậy căn cứ vào Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đây là hôn nhân hợp pháp, khi một trong các bên có yêu cầu ly hôn, Tòa án xem xét, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Bị đơn là ông R Girdauskas hiện đang cư trú tại Lithuania nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35 và khoản 1 Điều 37 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về việc xét xử vắng mặt đương sự trong vụ án:

Nguyên đơn có đơn xin giải quyết vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhưng vắng mặt không tham gia phiên tòa. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[3] Xét yêu cầu của bà Trần Thái H yêu cầu ly hôn ông R Girdauskas, Hội đồng xét xử xét thấy: Qua lời trình bày của bà H (bà H cam kết chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời khai của bà) thì thực tế sau khi kết hôn bà H và ông R Girdauskas chỉ chung sống hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Hai bên đã bỏ mặc, không quan tâm chăm sóc cho nhau trong một thời gian dài, do khoảng cách địa lý nên tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, hai bên chưa có sự gắn kết sâu đậm về tình cảm vợ chồng. Hiện nay bà H và ông R Girdauskas đang sinh sống ở hai nước khác nhau nên khả năng đoàn tụ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy bà H yêu cầu ly hôn với ông R Girdauskas là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về con chung: Có 01 con chung là trẻ DT Girdauskas, sinh ngày 24/3/2012. Hiện bà H đang trực tiếp nuôi dưỡng. Bà H có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng trẻ DT Girdauskas cho đến khi trẻ thành niên, không yêu cầu ông R Girdauskas cấp dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy, trẻ DT Girdauskas đã chung sống với bà H từ khi sinh ra cho đến nay và nguyện vọng của các trẻ là muốn được ở với bà H. Bà H khẳng định mình đủ khả năng kinh tế để nuôi con, không yêu cầu ông R Girdauskas có nghĩa vụ cấp dưỡng. Vì vậy để bảo đảm cuộc sống ổn định và điều kiện phát triển về mọi mặt cho trẻ DT Girdauskas, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu được trực tiếp nuôi con của bà H, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với ông R Girdauskas.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung: Bà Trần Thái H khai không có, Tòa án không xem xét.

[6] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho bà H ly hôn với ông R Girdauskas và đề nghị giao trẻ DT Girdauskas cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với thực tế nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng, bà Trần Thái H chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 5 Điều 477, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 121 và Điều 127 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thái H.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thái H được ly hôn với ông R Girdauskas.

Giấy chứng nhận kết hôn số 131, Quyển số 01/2012 ngày 04/7/2012 do Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương cấp cho bà Trần Thái H và ông R Girdauskas không còn giá trị pháp lý.

1.2. Về con chung: Bà Trần Thái H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ DT Girdauskas, sinh ngày 24/3/2012 cho đến khi trẻ thành niên.

Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với ông R Girdauskas.

Ông R Girdauskas có quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của con chung, khi có yêu cầu của cha, mẹ, người thân thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình và trẻ em hoặc Hội liên hiệp phụ nữ, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

1.3. Về tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung: Bà Trần Thái H khai không có, Tòa không xét.

2. Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng, bà Trần Thái H chịu và được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng mà bà H đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2017/0044342 ngày 24/4/2018 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà H đã nộp đủ tiền án phí.

3. Thi hành án tại cơ quan Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Bà Trần Thái H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án. Ông R Girdauskas được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ. Viện kiểm sát được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 1611/2019/HNGĐ-ST ngày 14/11/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1611/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;