Bản án 160/2021/HSST ngày 23/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 160/2021/HSST NGÀY 23/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 120/2021/HSST ngày 09 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Võ Thái N (tên gọi khác: Không) sinh năm1986, tại Đồng Tháp; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: 226, khóm P, thị trấn C, huyện C1, tỉnh Đ; Nơi ở hiện nay: Như trên; Nghề nghiệp: Công nhân; Chức vụ: Không; Trình độ văn hóa: 08/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Võ Văn D, sinh năm 1960 và bà Lê Thị Ngọc T, sinh năm 1961; Gia đình có 03 anh em bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Có vợ là Nguyễn Thị Thùy L, sinh năm 1989 (Đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2009; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 23/01/2020, bị Công an huyện Châu Thành, tinh Đồng Tháp xử phạt hành chính số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) theo quyết định số 01/QĐ về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 19/11/2020, chuyển tạm giam theo Lệnh số 1513 ngày 27/11/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện bị cáo đang giam giữ tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa – Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Thái N là đối tượng thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 21 giờ 00 phút, ngày 18/11/2020, bị cáo N đi đến khu vực sân vận động Đồng Nai, thuộc khu phố 3, phường T, thành phố B, tỉnh Đ mua của một người đàn ông tên Q (không rõ nhân thân lai lịch) 01 gói ma túy tổng hợp (dạng đá) với giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng). Sau khi mua, bị cáo cất giấu số ma túy trên với mục đích để sử dụng.

Vào khoảng 15 giờ 45 phút, ngày 19/11/2020 tại nhà số 15E, tổ 7, khu phố 3, phường T, thành phố B, tỉnh Đ, bị cáo để gói ma túy dưới nền gạch ngay chỗ bị cáo đang ngồi để chuẩn bị sử dụng thì bị lực lượng Công an phường Tân Hiệp kiểm tra bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 (một) gói nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng đã được niêm phong, có chữ ký của Võ Thái N.

Tại bản kết luận giám định số 2691/KLGĐ-PC09 ngày 26/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận:

“Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,3954gam, loại: Methamphetamine”.

Tại cáo trạng số 147/CT-VKSBH ngày 08 tháng 02 năm 2021, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố bị cáo Võ Thái N, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội nêu tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo điều khoản và tội danh như đã nêu trên. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như sau: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo N không có tình tiết năng nặng trách nhiệm hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo Võ Thái N mức án từ 01 (Một) năm đến 02 (Hai) năm tù giam.

Tại phiên tòa, bị cáo N không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát. Trong lời nói sau cùng bị cáo đã nhận thức hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo Võ Thái N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Cụ thể, vào khoảng 15 giờ 45 phút ngày 19/11/2020, ngay tại nhà trọ số 15E, tổ 7, khu phố 3, phường T, thành phố B, tỉnh Đ, bị cáo đang cất giấu gói ma túy để dưới nền gạch ngay chỗ bị cáo đang ngồi thì bị lực lượng Công an phường Tân Hiệp kiểm tra, phát hiện bắt quả tang hành vi tàng trữ trái phép ma túy có khối lượng là 0,3954gam, loại: Methamphetamine.

[3] Về tội danh: Xét thấy, lời khai của bị cáo N tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng, nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo Võ Thái N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân thành phố Biên Hòa đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo N có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.

[4] Về tính chất, mức độ hành vi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự; gây tác hại cho sức khỏe và gây ảnh nghiêm trọng đến trật tự trị an tại địa phương. Bản thân bị cáo cũng đủ nhận thức và biết ma túy là chất gây nghiện có tác hại rất lớn cho người sử dụng và đối với xã hội, bị cáo cũng nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Bị cáo cũng đã bị xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng không lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm cho mình mà tiếp tục phạm tội thể hiện bị cáo đã bất chấp pháp luật và cố tình vi phạm. Nên cần phải có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và có tác dụng răn đe, đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo N không có tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo N tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Với các tình tiết giảm nhẹ trên, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc, xem xét giảm nhẹ khi quyết định hình phạt đối với bị cáo để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo N tàng trữ trái phép chất ma tuý mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy. Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, bản thân lại nghiện chất ma tuý, nên không có điều kiện để thi hành. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng trong vụ án:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng ma túy của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa thu giữ sau giám định.

[9] Đối với đối tượng tên Q (chưa rõ nhân thân, lai lịch) có hành vi bán ma túy cho bị cáo N, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

[10] Về án phí: Bị cáo Võ Thái N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Đối với phần trình bày và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tại phiên tòa, xét thấy phù hợp với những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định về vụ án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Võ Thái N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Võ Thái N 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 19/11/2020.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng ma túy của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa thu giữ sau giám định.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23 tháng 02 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Võ Thái N phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Võ Thái N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 160/2021/HSST ngày 23/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:160/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;