Bản án 160/2020/HS-ST ngày 26/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ C P, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 160/2020/HS-ST NGÀY 26/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 26/9/2020 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố C P, tỉnh Quảng Ninh, đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 161/2020/TLST-HS ngày 09/9/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 151/2020/QĐXX-HS ngày 11/9/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: N V M - Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam.

Sinh ngày 04/3/1997, tại thành phố C P, tỉnh Quảng Ninh.

Nơi cư trú: Tổ 41, khu 3, phường C P, thành phố C P, tỉnh Quảng Ninh.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

Trình độ học vấn: 12/12.

Nghề nghiệp: Công nhân - Công ty than Q H .

Con ông N V N, sinh năm 1967; Con bà T T T, sinh năm 1967.

Vợ, con: Chưa.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt quả tang ngày 24/6/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh. Có mặt.

Người làm chứng: B B S. Vắng mặt.

Người chứng kiến: N T T. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 40 phút ngày 24/6/2020, tại tổ 30, khu 2B, phường C P, thành phố C P, tỉnh Quảng Ninh, Công an phường C P phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố C P, bắt quả tang N V M có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, mục đích để sử dụng. Vật chứng thu giữ trong tay trái M 01 gói giấy bạc bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động mặt sau có chữ MI vỏ màu xanh đen, màn hình bị vỡ, lắp sim số 0368.868.190.

Bản Kết luận giám định số 830/KLGĐ ngày 28/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong gói giấy bạc thu giữ của N V M là ma túy, loại Methamphetamine, có tổng khối lượng 0,293gam.

Quá trình điều tra N V M khai: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 24/6/2020, M gặp H (không rõ địa chỉ và họ tên đầy đủ) tại sân bóng phường C P, thành phố C P, H đưa 500.000 đồng cho M và bảo mua ma túy đá về để hai người cùng sử dụng. M gọi điện cho T (T H, sinh năm 1990, nhà ở khu 7 phường C T, thành phố C P, tỉnh Quảng Ninh) hỏi mua 500.000 đồng ma túy đá. Sau đó M đi xe ôm đến gần nhà T và bảo người lái xe ôm đứng chờ. M đi vào nhà mua được của T 01 gói ma túy đá được gói bằng giấy bạc màu trắng, với giá 500.000 đồng rồi cầm trên tay trái ra chỗ xe ôm đi về nhà. Đến khu vực ngã ba Cọc Sáu thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nội dung trên. Chiếc điện thoại MI bị thu giữ là của M sử dụng liên lạc mua ma túy của T.

Người làm chứng ông BBS khai: Khoảng 09 giờ 20 phút ngày 24/6/2020 ông S đang đỗ xe ôm tại ngã tư sân vận động thuộc phường C P, thành phố C P thì có 01 thanh niên (sau này mới biết tên là N V M) đến nói ông S chở đến khu vực phường C T, ông Sơn chở Minh đến khu vực nhà hàng Thiên Trang thì M xuống xe nói ông Sơn đợi, một lúc sau M đi ra và nói chở về, khi xe chạy đến khu vực ngã 3 Cọc Sáu thì bị Công an đến kiểm tra, thấy Công an thu trong tay trái M 01 gói giấy bạc, M khai là ma túy.

Người chứng kiến ông N T T khai: Khoảng 09 giờ 40 phút ngày 24/6/2020 ông T đi qua khu vực ngã 3 Cọc Sáu thuộc phường C P, thành phố C P thì thấy Công an đang bắt giữ một thanh niên (sau này biết tên là M), thu trên tay trái M 01 gói giấy bạc màu trắng và 01 điện thoại mặt sau có chữ MI vỏ màu xanh đen.

Bản cáo trạng số 147/CT-VKSCP ngày 09/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, đã truy tố Nguyễn Văn Minh về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C P giữ nguyên quan điểm truy tố, căn cứ tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị xử phạt N V M từ 15 tháng đến 18 tháng tù và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố C P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, N V M khai nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, người làm chứng, Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh và các chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ 40 phút ngày 24/6/2020, tại tổ 30, khu 2B, phường C P, thành phố C P, tỉnh Quảng Ninh, N V M có hành vi cất giấu trái phép 0,293 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị Công an bắt quả tang.

[3] Hành vi cất giấu trái phép 0,293 gam ma túy loại Methamphetamine của N V M đã cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố nên chấp nhận lời luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo.

Hành vi của N V M là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người trưởng thành, hiểu rõ tác hại của ma túy và hành vi tàng trữ chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng do ý thức chấp hành pháp luật kém nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội, do đó cần xử phạt nghiêm, cách ly bị cáo một thời gian để cải tạo giáo dục và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: N V M không có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về vật chứng của vụ án: 0,293 gam ma túy loại methamphetamine thu giữ của bị cáo, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh đã giám định hết một phần, hoàn lại 0,24 gam trong phong bì niêm phong số số 830/KLGĐ ngày 28/6/2020, đây là vật nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy.

01 điện thoại di động mặt sau có chữ MI vỏ màu xanh đen, màn hình bị vỡ, lắp sim số 0368.868.190, bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập nên không phạt tiền đối với bị cáo.

[7] M khai đối tượng H đưa tiền cho M mua ma túy, do M không biết nhân thân, lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ làm rõ. Đối với T C T theo M khai T bán ma túy cho M, do T vắng mặt tại địa phương, Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ và xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: N V M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: N V M phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: N V M 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 24/6/2020.

Về vật chứng: Căn cứ các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy: 0,24 gam ma túy, loại Methamphetamine hoàn lại trong niêm phong số 830/KLGĐ ngày 28/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động mặt sau có chữ MI vỏ màu xanh đen, màn hình bị vỡ, kèm 01 sim.

(Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 199/BB-THA ngày 11/9/2020 giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí Tòa án: N V M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

Căn cứ khoản 1 Điều 331 và khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Nguyễn Văn Minh có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 26/9/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 160/2020/HS-ST ngày 26/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:160/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;