Bản án 160/2020/HSST ngày 17/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂY HỒ - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 160/2020/HSST NGÀY 17/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 167/2020/HSST ngày 26 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 166/2020/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Duy T – sinh năm 1984; HKTT và nơi cư trú: Số nhà XX, ngõ 130/14/9, đường AD, phường Y, quận T, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; T giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị M; Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 000000218 do Công an quận Tây Hồ lập ngày 07/5/2020 và lý lịch do địa phương cung cấp thể hiện bị cáo không có tiền án, tiền sự; Nhân thân: không có tiền án, tiền sự; Bị cáo bị bắt ngày 29/4/2020 đến ngày 08/5/2020, hiện bị cáo đang bị tạm giữ trong vụ án khác (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy, khoảng 17 giờ ngày 29/04/2020, T điều khiển xe máy Yamaha nhãn hiệu Novo đến Số nhà X, hẻm 43, ngõ 310, đường Ng. T, phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội mua của người đàn ông tên Dũng (tức Đôn) 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng là ma túy “đá” với giá 450.000đ (bốn trăm năm mươi nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy, T cầm túi nilon chứa ma túy ở tay đi bộ ra cổng nhà Dũng thì nhặt được 01 túi nilon chứa chất bột màu trắng rơi ở trong sân. Biết túi nilon chứa chất bột màu trắng là ma túy “ke” T nhặt lên và cất giấu cùng túi nilon chứa ma túy “đá” vừa mua được vào túi quần bên phải đang mặc rồi điều khiển xe máy đi về. Khi T đến trước số nhà 276 Nghi Tàm, phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội thì bị Tổ công tác công an phường Tứ Liên kiểm tra hành chính.

Ngoài hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị bắt quả tang, T khai nhận đã nhiều lần mua ma túy của Dũng để sử dụng. Lần gần nhất là ngày 26/4/2020, T mua của Dũng 300.000 đồng tiền ma túy và mang về nhà sử dụng một phần, phần còn lại, T đựng trong 01 chiếc coóng thủy tinh và cất giấu tại gốc cây trước cửa nhà T tại địa chỉ số nhà 15, ngõ 130/14/9, đường An Dương, phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Cơ quan điều tra tiến hành dẫn giải, xác định và thu giữ 01 chiếc coóng thủy tinh bên trong chứa tinh thể màu trắng tại vị trí có địa chỉ đúng như T đã tự khai nhận như trên.

Vt chứng thu giữ của T:

+ 01 túi nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng;

+ 01 túi nilon bên trong chứa chất bột màu trắng;

+ 01 điện thoại di động Nokia, màu xanh, imei 3518667/07/188251/5;

+ 01 xe máy Yamaha, không đeo biển kiểm soát;

+ 01 chiếc coóng thủy tinh bên trong chứa tinh thể màu trắng.

Tại kết luận giám định số 3330/ KLGĐ – PC09 ngày 05/05/2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an thành phố Hà Nội xác định:

+ Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,510 gam.

+ Chất bột màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Ketamine, khối lượng 0,158 gam.

+ Tinh thể màu trắng bên trong coóng thủy tinh là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,170 gam.

Cơ quan CSĐT - Công an quận Tây Hồ cho Lê Duy T tiến hành dẫn giải và xác minh xác định: Địa điểm Lê Duy T mua ma túy ngày 29/4/2020 là nhà Nguyễn Tiến D - sinh năm 1966, địa chỉ số X, ngõ XX Nghi Tàm, phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, Dũng không có nhà nên không triệu tập, lấy lời khai của Dũng được. Cho T nhận dạng qua ảnh, T xác định Nguyễn Tiến D là người bán ma túy cho mình. Do không làm rõ được hành vi của Nguyễn Tiến D như lời khai của Lê Duy T nên Cơ quan CSĐT - Công an quận Tây Hồ đã quyết định tách rút tài liệu liên quan đến Nguyễn Tiến D để tiến hành điều tra, xử lý sau.

Đi với chiếc xe máy Yamaha nhãn hiệu Nouvo, không biển kiểm soát, có số khung 136337, số máy 136337 là số nguyên thủy. Tra cứu xác định xe mang BKS: 29X8-3352, người đăng ký là anh Đặng Việt H (sinh năm 1988 HKTT: số X ngách XX/XX An Dương, phường Yên Phụ, quận Tây Hồ). Anh H khai xe máy là của bà Phạm Thanh Th sinh năm 1965 là mẹ anh H mua, giấy tờ xe bà Th đã đánh mất. Bà Th khai tháng 2/2020 bà Thủy cho Lê Duy T mượn xe máy trên để đi lại. Bà Th không biết T sử dụng xe máy để đi mua ma túy.

T khai nhận: Chiếc xe máy trên là T mượn của bà Th, quá trình sử dụng T làm rơi mất biển kiểm soát. Việc T sử dụng xe máy đi mua ma túy về sử dụng bà Th không biết.

Cơ quan CSĐT – Công an quận Tây Hồ đã tiến hành trả lại cho bà Phạm Thanh Th chiếc xe máy Yamaha nhãn hiệu Nouvo, bà Th đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự.

Đi với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và điều khiển xe máy không gắn biển số của Lê Duy T, ngày 04/8/2020, Công an quận Tây Hồ đã ra quyết định xử phạt hành chính.

Bản cáo trạng số 157/CT - VKSTH ngày 18 tháng 8 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Tây Hồ đã truy tố bị cáo Lê Duy T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, ban đầu, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội quả tang nhưng không thừa nhận số ma túy thu giữ tại gốc cây trước cửa nhà bị cáo tại số 15 ngõ 130/14/9 An Dương, phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội là của mình. Quá trình tranh tụng tại phiên tòa, bị cáo mới khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lê Duy T đã đủ yếu tố cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 và giữ nguyên nội dung bản cáo trạng.

Sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Về hình phạt đề nghị xử phạt Lê Duy T từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng Về vật chứng:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy 02 bao niêm phong, có chữ ký của Lê Duy T, giám định viên Phạm Đình Đạo, cán bộ Phan Văn Trinh và dấu của cơ quan điều tra;

- Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động di động Nokia, màu xanh, imei 351867/07/188251/5;

Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm.

Nói lời sau cùng: Bị cáo biết mình sai, vi phạm pháp luật, xin hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Tây Hồ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Tây Hồ, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Tây Hồ đã có quyết định tách rút tài liệu số 27 ngày 06/8/2020 liên quan đến Nguyễn Tiến D để tiến hành điều tra, xử lý sau. Do đó, kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Tây Hồ tiếp tục điều tra, làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi của bị cáo: Xét lời khai nhận của bị cáo Lê Duy T tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; bản kết luận giám định; lời khai người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ và nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Hi đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Lần 1: Khoảng 18 giờ 45 phút, ngày 29/4/2020, tại trước cửa số nhà 276 Nghi Tàm, phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội, Lê Duy T có hành vi tàng trữ trái phép 01 túi nilon bên trong có chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,510 gam và 01 túi nilon bên trong có chứa chất bột màu trắng là ma túy loại Ketamine, khối lượng 0,158 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang.

Lần 2: Ngày 26/4/2020, Lê Duy T đã mua của Dũng 300.000 đồng tiền ma túy rồi đem về nhà sử dụng một phần, phần còn lại T cất dấu trong 01 chiếc coóng thủy tinh là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,170 gam với mục đích để sử dụng cho bản thân và bị cáo đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan Công an.

Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó Viện kiểm sát nhân dân quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội đã đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố bị cáo Lê Duy T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã cố ý xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy và xâm phạm trật tự an toàn xã hội được bộ luật Hình sự bảo vệ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Điều đó chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật. Xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, với khối lượng 0,680 gam ma túy loại Methamphetamine và 0,158 gam ma túy loại Ketamine cần áp dụng một hình phạt tù trong khung hình phạt, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội 02 lần trở lên, đây là tình tiết định khung theo điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự nên không được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo có mức độ; nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Do đó, Hội đồng xét xử cũng xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 .

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản và không có thu nhập nên không áp dụng.

[6] Về vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy 02 bao niêm phong, có chữ ký của Lê Duy T, giám định viên Phạm Đình Đạo, cán bộ Phan Văn Trinh và dấu của cơ quan công an;

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động di động Nokia, màu xanh, IMEI 351867/07/188251/5;

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Duy T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Lê Duy T 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày ngày bắt thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 29/4/2020 đến ngày 08/5/2020

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47, khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015:

- Tịch thu, tiêu hủy 02 bao niêm phong, có chữ ký của Lê Duy T, giám định viên Phạm Đình Đạo, cán bộ Phan Văn Trinh và dấu của cơ quan công an.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động di động Nokia, màu xanh, IMEI 351867/07/188251/5.

(Tang vật trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Tây Hồ, theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/8/2020)

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về chế độ án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Án xử công khai sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

446
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 160/2020/HSST ngày 17/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:160/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tây Hồ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;