Bản án 158A/2019/HSST ngày 12/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 158A/2019/HSST NGÀY 12/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 167/2019/HSST ngày 23 tháng 10 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 208/2019/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Tuấn K – Tên gọi khác: Không:

Sinh năm: 1998, tại tỉnh Bình Thuận; HKTT: Khu phố 2, phường P, TP C, tỉnh Bình Thuận; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Không; Cha: ông Nguyễn Ngọc T; Sinh năm 1974; Nghề nghiệp: Thợ hồ; HKTT: Khu phố 2, phường P, TP. C, tỉnh Bình Thuận; Mẹ: bà Văn Quý Thị Kim A ( Đã chết); Anh chị em ruột: Không; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Không; Bị can hiện đang được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo cáo trạng, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ ngày 11/10/2018, Nguyễn Tuấn K điều khiển xe mô tô, biển số 86C1-604.98 đi cùng với Nguyễn Ngọc H, Lê Quốc M, Nguyễn Thiện P và 02 thanh niên tên V, H1 (không rõ nhân thân) đến công viên X (thuộc phường P1, TP.Phan Thiết) để uống nước. Đến khoảng 21 cùng ngày thì K có nhu cầu sử dụng ma túy nên K một mình điều khiển xe mô tô biển số 86C1-604.98 đi đến khu vực cầu Trần Hưng Đạo (thuộc phường Bình Hưng, TP.Phan Thiết) để mua ma túy thì gặp một đối tượng tên H2 (không rõ nhân thân). Lúc này, K nhờ H2 mua giùm 300.000 đồng ma túy đá thì H2 đồng ý. H2 nói với K đứng đợi. Khoảng 10 phút sau, H2 quay lại và đưa cho K 01 gói ma túy đá còn K đưa cho H2 300.000 đồng, K nhận ma túy bỏ vào túi quần jean bên trái phía trước rồi điều khiển xe mô tô đi về công viên X uống nước cùng nhóm bạn đến khoảng 23 giờ cùng ngày thì ra về. Lúc này, P rủ K, H, M, V và H1 về nhà P ở khu phố 3, phường N chơi thì tất cả đồng ý. Tại nhà của P, cả nhóm rủ nhau sử dụng ma túy đá nhưng vì sợ bà ngoại của P phát hiện nên cả nhóm bàn bạc đi nhà nghỉ để sử dụng. Lúc này, một mình K dắt xe mô tô đi ra ngoài cổng nhà P gần đường Phạm Ngọc Thạch (thuộc KP3, phường N, TP.Phan Thiết) thì bị lực lượng Cảnh sát 113 - Công an tỉnh Bình Thuận phát hiện có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra hành chính. Vì sợ bị phát hiện tàng trữ chất ma túy nên K dùng tay thò vào túi quần jean phía trước bên trái lấy gói ma túy mà K đã mua trước đó ném xuống lề đường Phạm Ngọc Thạch (gần chỗ K đứng) thì bị lực lượng Cảnh sát 113 phát hiện, tiến hành lập biên bản và thu giữ của Nguyễn Tuấn K các tang vật, tài sản liên quan sau:

- 01 gói nylon không màu, hàn kín, kích thước khoảng 03 x 02 cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng. (ký hiệu là M khi giám định).

- 01 xe mô tô hiệu BELITA, biển số: 86C1-604.98, số khung: VTRWCH034UM501195, số máy: VTT1P52FMH501195.

- 01 con dao bấm.

- Tại Bản kết luận giám định số 987/KLGĐ-PC09 ngày 06/11/2018, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,2354 gam, là Methamphetamine.

Hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định: 01 (một) gói nylon đã cắt lấy mẫu và 0,1482 gam mẫu M còn lại sau giám định, được niêm phong trong các phong bì số 987, có chữ ký của giám đinh viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

Quá trình làm việc với Cơ quan điều tra, Nguyễn Tuấn K đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên, K khai nhận mua ma túy để sử dụng chứ không nhằm mục đích bán cho người khác.

Cáo trạng số 160/CT-VKS ngày 14 tháng 10 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân TP C truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP C, giữ quyền công tố đã luận tội và tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn K từ 12 tháng tù đến 18 tháng tù.

Biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm b khoản 1, Điều 46; điểm a, c Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Trả lại 01 xe mô tô hiệu BELITA, biển số: 86C1-604.98, số khung: VTRWCH034UM501195, số máy: VTT1P52FMH501195 cho Nguyễn Tuấn K.

- Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 987 có chữ ký Giám định viên Đinh Trung Hiếu có dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận và 01 cây dao bấm.

Nói lời sau cùng: Bị cáo xác định cáo trạng truy tố là đúng, không oan, bị cáo không tranh luận gì, thống nhất với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

 NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP C, Viện kiểm sát nhân dân TP C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an TP C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo và xuất trình các chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Tuấn K tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, các vật chứng đã thu giữ và kết luận giám định. Phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 23 giờ, ngày 11/10/2018, tại khu vực gần cầu Trấn Hưng, thuộc khu phố 3, phường N, TP.Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận Nguyễn Tuấn K đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2354 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

Bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý của nhà nước về chất ma túy. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Do vậy, Cáo trạng số 160/CT-VKS ngày 14 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân TP C truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng quy định pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo biết rõ ma túy là chất gây nghiện, nên đã được Nhà nước quản lý và nghiêm cấm hoạt động tàng trữ, mua bán trái phép nên Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản, mở các cuộc vận động, tuyên truyền toàn dân tham gia tích cực đấu tranh, ngăn chặn tệ nạn mua bán, tàng trử và nghiện hút ma túy làm trong sạch xã hội. Thế nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép. Hành vi của bị cáo không những đã xâm phạm đến chính sách quản lý của nhà nước về chất ma túy, mà còn gây mất trật tự trị an xã hội. Nhất là trong giai đoạn hiện nay tệ nạn ma túy ngày một lây lan, gây ra những hậu quả, hệ lụy nguy hiểm cho xã hội và còn là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến việc thực hiện nhiều loại tội phạm khác.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có xem xét đến nhân thân của bị cáo xét thấy cần phải xử lý và áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới, đồng thời giáo dục những người khác tôn trọng pháp luật và đấu tranh chống tội phạm.

[5] Về mức hình phạt: Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP C, giữ quyền công tố đã luận tội và tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn K từ 12 tháng tù đến 18 tháng tù. Mức hình phạt và điều luật áp dụng của Viện kiểm sát nhân dân TP C là phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

[6] Biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm b khoản 1, Điều 46; điểm a, c Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Trả lại 01 xe mô tô hiệu BELITA, biển số: 86C1-604.98, số khung: VTRWCH034UM501195, số máy: VTT1P52FMH501195 cho Nguyễn Tuấn K.

- Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 987 có chữ ký Giám định viên Đinh Trung Hiếu có dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận và 01 cây dao bấm.

[7] Về người liên quan đến vụ án: Đối với đối tượng tên H2 bán ma túy cho K, do không xác minh được nhân thân, nên không có căn cứ để xử lý là phù hợp.

[8] Bị cáo phải nộp tiền án phí và những người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1/ Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tuấn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt: Nguyễn Tuấn K 12 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2/ Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm b khoản 1, Điều 46; điểm a, c Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Trả lại 01 xe mô tô hiệu BELITA, biển số: 86C1-604.98, số khung: VTRWCH034UM501195, số máy: VTT1P52FMH501195 cho Nguyễn Tuấn K - Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 987 có chữ ký Giám định viên Đinh Trung Hiếu có dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận và 01 cây dao bấm.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 17 ngày 24/10/2019 của Chi cục thi hành án dân sự TP C).

3/ Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo K phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4/ Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (12/11/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 158A/2019/HSST ngày 12/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:158A/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;