TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 158/2019/HS-ST NGÀY 31/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 31 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 124/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:158/2019/QDXXST-HS ngày 16 tháng 05 năm 2019 đối với bị cáo:
Đinh Thái Đ, sinh năm 1967 tại tỉnh Đồng Nai; thường trú: Ấp B Ch, xã B S, huyện Tr B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Đinh Văn V (đã chết) và bà Ngô Thị Ch (đã chết); bị cáo có 09 anh chị em ruột, bị cáo là con thứ 8 và chưa có vợ con; tiền sự: Không;
Tiền án:
- Ngày 24/8/2010, bị Tòa án nhân dân thị xã Đ X (nay là thành phố Đ X), tỉnh Bình Phước xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án Hình sự số 60/2010/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/02/2011;
- Ngày 08/5/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Ch Th, tỉnh Bình Phước xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án Hình sự số 46/2012/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/01/2013;
- Ngày 18/8/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Tr B, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án Hình sự số 140/2015/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/9/2015;
- Ngày 10/3/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố B H, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án Hình sự số 150/2016/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/8/2018.
Nhân thân:
- Ngày 08/6/1994, bị Tòa án Quân sự khu vực M, Quân khu B xử phạt 24 tháng tù về tội Đào ngũ, theo bản án Hình sự số 18/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/9/1995;
- Ngày 22/01/1999, bị Tòa án nhân dân huyện Th Nh, tỉnh Đồng Nai xử phạt 10 tháng tù về tội Gây rối trật tự công cộng và 08 tháng tù về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản của Công dân, theo Bản án Hình sự số 05/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/02/2000;
- Ngày 05/10/2005, bị Tòa án nhân dân huyện C Ch, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án hình sự số 166/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/3/2006.
- Ngày 24/01/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố B H, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án Hình sự số 55/2019/HSST.
Bị cáo đang bị tạm giam trong vụ án khác, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Bị hại: Anh Vũ Văn V, sinh năm 1988; thường trú: Thôn Nhì H, xã Đ H, huyện Y Đ, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: Số 155B/5 đường M Ph T V, khu phố B Th H, phường B A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Anh Vũ Ngọc Ph, sinh năm 1988; thường trú: Số 5/4 khu phố B, phường Đ H, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai, vắng mặt.
2. Bà Đinh Thị D, sinh năm 1962; thường trú: Ấp B, xã S Tr, huyện Tr B, tỉnh Đồng Nai, vắng mặt.
3. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm không rõ; thường trú: Số 814/4, khu phố B, phường A Ph, thị xã Th A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bản thân Đinh Thái Đ không có nghề nghiệp. Khoảng 07 giờ ngày 17/10/2018, Đ điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu trắng đen xám, biển số 60B2-415.18 chạy từ ngã ba T V về hướng Quốc lộ 1K thuộc thị xã D A, tỉnh Bình Dương để tìm tài sản chiếm đoạt. Đ điều khiển xe mô tô chạy đến trước tiệm vá vỏ xe ô tô Vân Anh, địa chỉ số 155B/5 đường M Ph – Tâ V, khu phố B Th 2, phường B A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương thì nhìn thấy cửa tiệm mở không có người trông coi nên Đ dựng xe phía ngoài, đi bộ vào bên trong. Đ nhìn thấy anh Vũ Văn V đang nằm ngủ trên giường xếp cạnh cửa ra vào, bên cạnh có 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7, màu đen đang để trên mặt ghế nhựa màu đỏ. Lúc này, Đ liền lấy điện thoại Samsung Galaxy J7 cầm trên tay đi ra ngoài bỏ vào cốp xe rồi điều khiển xe mô tô tẩu thoát về hướng thành phố B H, tỉnh Đồng Nai. Khi đến trước cửa hàng bán sơn tại địa chỉ số 464/8 khu phố 5B, phường T B, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai thì Đ nhìn thấy cửa hàng không người trông coi nên Đ dừng xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu trắng đen xám, biển số 60B2-415.18 bên ngoài rồi đi bộ vào phía bên trong lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động hiệu Sony Xperia M5 màu trắng của anh Nguyễn Xuân Tr cất giấu vào trong túi quần đang mặc rồi đi ra ngoài để tẩu thoát. Lúc này, anh Tr phát hiện tri hô cùng người dân bắt giữ Đ cùng tang vật giao cho Công an phường T B, thành phố B H lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.
Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B H, tỉnh Đồng Nai đã lập hồ sơ vụ trộm cắp tài sản xảy ra tại địa bàn thị xã D A, tỉnh Bình Dương chuyển giao cùng tang vật cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương xử lý theo thẩm quyền.
Vật chứng thu giữ: 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7, màu đen.
Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 55/BB.ĐG ngày 05/3/2019 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An kết luận: 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7, màu đen có trị giá 3.000.000 đồng.
Quá trình điều tra các bị cáo và bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì Kết luận định giá tài sản số 55/BB.ĐG ngày 05/3/2019 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu trắng đen xám, biển số 60B2-415.18 là tài sản của bà Đinh Thị D cho Đinh Thái Đ mượn để đi lại, không biết Đồng sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương đã trả lại xe cho bà D.
Tại Cáo trạng số 149/CT - VKS ngày 23 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố Đinh Thái Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Đinh Thái Đ về tội “Trộm cắp tài sản” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Đinh Thái Đ từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù đồng thời tổng hợp hình phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù theo Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2019/HSST ngày 24/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố B H, tỉnh Đồng Nai.
Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7, màu đen đã thu hồi trả lại cho bị hại Vũ Văn Vân, bị hại không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét.
Trong quá trình điều tra bị cáo thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản của mình đồng thời bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về nội dung: Khoảng 07 giờ 20 phút ngày 17/10/2018, tại tiệm vá vỏ xe ô tô V A, địa chỉ số 155B/5 đường M Ph – T V, khu phố B Th 2, phường B A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, lợi dụng sơ hở, thiếu cảnh giác của các bị hại Vũ Văn V, bị cáo Đinh Thái Đ đã lén lút chiếm đoạt 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7, màu đen có trị giá 3.000.000 đồng (Theo biên bản Kết luận định giá tài sản số 55/BB.ĐG ngày 05/3/2019 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương) Theo quy định tại khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: “Phạm tôi thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
…
g) Tái phạm nguy hiểm…”
[2] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Đinh Thái Đ đã lén lút chiếm đoạt 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7, màu đen có trị giá 3.000.000 đồng, bị cáo đã tái phạm chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội mới do cố ý, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số 149/CT-VKS ngày 23 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên truy tố bị cáo Đinh Thái Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện tuy là nghiêm trọng đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Về nhận thức bị cáo hoàn toàn biết hành vi trộm cắp tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng vì lòng tham, muốn kiếm tiền nhanh chóng không phải lao động để phục vụ nhu cầu bản thân mà bị cáo cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.
[4] Tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[6] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu thể hiện bị cáo đã nhiều lần xét xử về tội Trộm cắp tài sản, không có nghề nghiệp nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[7] Xét bị cáo phạm tội nghiêm trọng, nhân thân xấu đã nhiều lần bị Tòa án xét xử về hành vi Trộm cắp tài sản nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục hành vi phạm tội, bị cáo muốn kiếm tiền nhanh chóng để phục vụ nhu cầu của bản thân mà bị cáo cố tình tài sản của bị hại đồng thời tình hình trộm cắp tài sản xảy ra trên địa bàn dân cư thị xã D A, tỉnh Bình Dương diễn ra hết sức tinh vi phức tạp, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.
[8] Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu trắng đen xám, biển số 60B2-415.18 là tài sản của bà Đinh Thị D cho Đinh Thái Đ mượn để đi lại, không biết Đồng sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương đã trả lại xe cho bà D là đúng theo quy định của pháp luật.
[9] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Đối với với 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7, màu đen đã thu hồi trả lại cho bị hại Vũ Văn V, bị hại không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[10] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[11] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Đối với bị cáo Đinh Thái Đ có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị cáo là đúng theo quy định của pháp luật.
[12] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Đinh Thái Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo Đinh Thái Đ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù theo Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2019/HSST ngày 24/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố B H, tỉnh Đồng Nai thành hình phạt chung của 02 bản án là 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 17/10/2018.
2. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Đinh Thái Đ phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ./.
Bản án 158/2019/HS-ST ngày 31/05/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 158/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/05/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về