Bản án 158/2017/HSST ngày 04/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 158/2017/HSST NGÀY 04/07/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04/7/2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 163/2017/HSST ngày 16/6/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Quàng Văn H, tên gọi khác: Không, Sinh năm: 1985, tại Điện Biên. Trú tại: Đội 9A, xã L, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

Nơi ĐKHKTT: Đội 9A, xã L, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: Làm ruộng;

Trình độ văn hoá: 12/12.

Con ông: Quàng Văn S, sinh năm 1965; Con bà: Vì Thị T, sinh năm 1969.

Gia đình bị cáo có 04 anh em, bị cáo là con thứ 01 trong gia đình. Vợ, con: Chưa có;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2017, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Quàng Văn H bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 22/4/2017, bị cáo đi từ nhà đến đội 10, xã H, huyện Đ với mục đích là mua ma túy về sử dụng. Bị cáo gặp và mua được 01 gói hê rô in với giá 900.000đ, của một người đàn ông khoảng 40 tuổi, không biết tên và địa chỉ. Bị cáo về nhà, bị cáo lấy gói hê rô in mua được cấu một ít để sử dụng. Số hê rô in còn lại bị cáo cất giấu trong hộp bìa cát tông ở kho thóc gia đình bị cáo. Đến 12 giờ ngày 26/4/2017 bị cáo lấy gói hê rô in ra đút vào túi quần bên phải đang mặc để đi sử dụng, thì bị tổ công tác Đồn biên phòng L phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng là một gói hê rô in.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định trọng lượng ngày 27/4/2017 đã xác định: Số chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo có trọng lượng là 3,78 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 433/GĐ – PC54 ngày 24/5/2017, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng được trích từ vật chứng thu giữ của Quàng Văn H gửi giám định là hêrôin.

Tại bản cáo trạng số: 97/QĐ-VKS-HS ngày 15/6/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Quàng Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194/BLHS, điểm p khoản 1 Điều 46/BLHS, điểm a khoản 4 Điều 1 Nghị quyết 144/2016/QH13. Đề nghị xử phạt bị cáo Quàng Văn H từ 42 tháng đến 48 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 76/BLTTHS về xử lý vật chứng. Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo tại phiên tòa.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Quàng Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội; đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bởi vì, ma túy là một hiểm họa của nhân loại, đồng thời ma túy cũng là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác. Chính vì thế mà Nhà nước ta đã nghiêm cấm mọi hành vi có liên quan đến ma túy. Nếu bị phát hiện Nhà nước sẽ xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Nên cần phải xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.

Hành vi cất giấu 3,78 gam hê rô in của bị cáo, với mục đích để sử dụng. Cho nên, VKSND huyện Đ đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194/BLHS là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo HĐXX thấy rằng: Bị cáo được đi học đến lớp 12/12 thì nghỉ học, ở nhà. Bị cáo nghiện ma túy từ năm 2011. Ngày 26/4/2017 bị cáo phạm tội trong vụ án này và bị bắt giam cho đến nay.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46/BLHS; điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 3 Điều 7/BLHS năm 2015 và theo điểm a khoản 4 Điều 1 Nghị quyết 144/2016/QH13 và Công văn 276/TANDTC-PC ngày 13/9/2016 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của BLHS năm 2015.

Để cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 194/BLHS là phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có khả năng thi hành. Cho nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Còn đối với người đàn ông theo bị cáo khai đã bán hêrôin cho bị cáo, do bị cáo không biết tên và địa chỉ, nên CQĐT không xác minh làm rõ được.

Vật chứng của vụ án là 3,78 gam hêrôin, gửi giám định 0,17 gam (không hoàn lại mẫu vật sau khi giám định) cần bị tịch thu, tiêu huỷ theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 76/BLTTHS.

Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Quàng Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng: Khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46/Bộ luật hình sự; điểm a khoản 4 Điều 1 Nghị quyết 144/2016/QH13 của Quốc hội, khoản 3 Điều 7 và khoản 1 Điều249/Bộ luật hình sự năm 2015 xử và xử phạt bị cáo Quàng Văn H 42 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày 26/4/2017.

3. Áp dụng: Điểm a khoản 2 Điều 76/Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 3,78 gam hêrôin. Đã trích 0,17 gam gửi giám định không hoàn lại mẫu vật sau giám định.

- (Vật chứng đã được công an huyện Đ chuyển cho chi cục thi hành án dân sự huyện Đ ngày 26/6/2017).

4. Án phí: Áp dụng Điều 99/BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

5. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 158/2017/HSST ngày 04/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:158/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;