Bản án 156/2021/HS-PT ngày 14/10/2021 về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 156/2021/HS-PT NGÀY 14/10/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 14 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 116/2021/TLPT-HS ngày 24 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo Trần Thanh D cùng đồng phạm, do có kháng cáo của bị cáo Trần Thanh D và các bị cáo khác đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số: 36/2021/HS-ST ngày 18/05/2021 của Tòa án nhân dân huyện TB, tỉnh Tây Ninh.

- Các bị cáo kháng cáo:

1. Trần Thanh D, sinh năm 1981 tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: ấp M, xã TP, huyện TB, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Cao Đài; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn C và bà Lê Thị T; vợ tên: Trần Thị D và 01 con; tiền án, tiền sự: không có;

Bị bắt tạm giữ ngày 07-11-2020, đến ngày 16-11-2020 chuyển sang tạm giam, ngày 04-02-2021 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú”đến nay; có mặt.

2. Mai Phước T (tự T k), sinh năm 1978 tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: ấp M, xã TP, huyện TB, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: tài xế; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Cao Đài; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Hữu T (chết) và bà Đặng Thị G; vợ tên: Đặng Thị Tuyết N và 04 con; tiền án, tiền sự: không có;

Bị bắt tạm giữ từ ngày 07-11-2020, đến ngày 16-11-2020 chuyển sang tạm giam, ngày 04-02-2021 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: “ Cấm đi khỏi nơi cư trú” đến nay; có mặt.

3. Nguyễn Văn T, sinh năm 1996, tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: ấp SB, xã TP, huyện TB, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn X và bà Bùi Thanh T; vợ tên: Trần Thị Anh T; con: không có.

Tiền án: Bản án Hình sự sơ thẩm số: 83/2019/HSST ngày 30-10-2019, Tòa án nhân dân huyện TB, tỉnh Tây Ninh xử phạt Nguyễn Văn T số tiền 25.000.000 đồng về tội “ Đánh bạc ”, chưa chấp hành xong việc nộp phạt, chưa được xóa án tích; tiền sự: không có.

Nhân thân: Quyết định số 127/QĐ-XPHC ngày 15-01-2017 của Trưởng Công an huyện TB, tỉnh Tây Ninh; phạt Nguyễn Văn T số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc, được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính;

Bị bắt tạm giữ ngày 07-11-2020, đến ngày 16-11-2020 chuyển sang tạm giam đến nay; có mặt.

4. Trương Văn Minh T (tự C), sinh năm 1997 tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: ấp SB, xã TP, huyện TB, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn S và bà Phạm Thị Tuyết L; Vợ và con: không có.Tiền án, tiền sự: không có;

Bị bắt tạm giữ ngày 07-11-2020, đến ngày 16-11-2020 chuyển sang tạm giam, ngày 04-02-2021 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: “ Cấm đi khỏi nơi cư trú” đến nay; có mặt.

5. Nguyễn Hóa T, sinh năm 1961 tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: ấp , xã MC, huyện TB, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: nội trợ; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: Thiên Chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V và bà Nguyễn Thị C (đều chết); chồng Phùng Văn C và 04 con;

Tiền án: Bản án Hình sự sơ thẩm số: 103/2011/HSST ngày 20-7-2011 của Tòa án nhân dân huyện TB, tỉnh Tây Ninh xử phạt Nguyễn Hóa T 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 42 tháng 04 ngày và phạt bổ sung số tiền 5.000.000 đồng về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ”, đã chấp hành xong hình phạt chính, đã nộp tiền phạt ngày 07-4-2021, chưa được xóa án tích; tiền sự: không có;

Nhân thân: Quyết định số: 153/QĐ-XPHC ngày 17-12-2020 của Trưởng Công an xã MC, huyện TB, tỉnh Tây Ninh; phạt Nguyễn Hóa T số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc trái phép, chưa nộp tiền phạt;

Bị bắt tạm giam ngày 01-3-2021, đến ngày 12-3-2021, áp dụng biện pháp bảo lĩnh đến nay; có mặt.

Người bào chữa: Ông Nguyễn Văn C- Luật sư của Văn phòng luật sư Nguyễn Văn C; thuộc Đoàn luật sư tỉnh Tây Ninh; bào chửa cho bị cáo Trần Thanh D và Nguyễn Văn T; có mặt.

Các bị cáo Huỳnh Văn L, Lê Minh T, Trần Văn Q, Nguyễn Tuấn T, Võ Thị M, Võ Minh S, Đỗ Mỹ D, Trương Mạnh H không có kháng cáo, không bị kháng nghị.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Toà án không triệu tập 1. Anh Nguyễn Ngọc N, sinh năm 1978; nơi cư trú: ấp , xã TV, huyện TB, tỉnh Tây Ninh;

2. Anh Phùng Văn Q, sinh năm 1984; nơi cư trú: ấp , xã MC, huyện TB, tỉnh Tây Ninh;

3. Chị Nguyễn Kim A, sinh năm 1988; nơi cư trú: ấp , xã MC, huyện TB, tỉnh Tây Ninh;

4. Chị Lê Thị Thanh T, sinh năm 1993; nơi cư trú: ấp TT, xã TH, huyện TC, tỉnh Tây Ninh;

5. Anh Lâm Thành M, sinh năm 1979; nơi cư trú: ấp XT, xã TP, huyện TB, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 01-11-2020 đến ngày 07-11-2020, Trần Thanh D tổ chức sòng tại xỉu, tại chòi hoang cặp bờ kênh; thuộc ấp M, xã TP, huyện TB, tỉnh Tây Ninh để thu lợi từ việc bán nước và thu tiền xâu của những người làm cái. D thuê L cảnh giới và bán nước uống, D trả tiền cho L mỗi ngày từ 200.000 đồng đến 400.000 đồng, mỗi ngày D thu lợi số tiền từ 100.000 đồng đến 150.000 đồng. Trong ngày 07-11-2020, sòng bài hoạt động 02 đợt, cụ thể:

Đợt 1: Khoảng 13 giờ, D tổ chức đánh bạc, có L canh đường và Nguyễn Văn T làm cái. Các con bạc đặt cược gồm Trần Thanh D, Mai Phước T, Lê Minh T, Trần Văn Q, Nguyễn Tuấn T, Trương Văn Minh T, Võ Thị M, Trương Mạnh H; số tiền sử dụng đánh bạc cụ thể như sau:

1. Nguyễn Văn T sử dụng số tiền 6.000.000 đồng làm cái đánh bạc, thắng được số tiền 650.000 đồng và trả tiền xâu cho D để trả tiền công cho L số tiền 200.000 đồng.

2. Trần Thanh D sử dụng số tiền 3.500.000 đồng đặt cược, thua số tiền 2.300.000 đồng.

3. Mai Phước T sử dụng số tiền 1.000.000 đồng đặt cược và thua hết.

4. Lê Minh T sử dụng số tiền 1.200.000 đồng đặt cược, thắng được số tiền 400.000 đồng.

5. Trần Văn Q sử dụng số tiền 3.500.000 đồng đặt cược, thắng được số tiền 500.000 đồng.

6. Nguyễn Tuấn T sử dụng số tiền 700.000 đồng đặt cược, thắng được số tiền 500.000 đồng.

7. Trương Văn Minh T sử dụng số tiền 1.000.000 đồng đặt cược, bị thua hết tiền.

8. Võ Thị M sử dụng số tiền 1.000.000 đồng đặt cược, bị thua hết tiền.

9. Trương Mạnh H sử dụng số tiền 300.000 đồng đặt cược, bị thua hết.

Tổng số tiền dùng đánh bạc 18.200.000 đồng, đến 17 giờ sòng bạc nghỉ, D thu tiền xâu vàtiền bán nước uống được số tiền 300.000 đồng, trả công cho L số tiền 200.000 đồng.

Đợt 2: Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, D mang theo số tiền 21.700.000 đồng, T mang theo số tiền 12.000.000 đồng, T mang theo số tiền 400.000 đồng, Q mang theo số tiền 4.100.000 đồng; cùng thỏa thuận mỗi người hùn số tiền 5.000.000 đồng làm cái (T, T, Q không thỏa thuận với D về việc thuê L làm nhiệm vụ cảnh giới và không hưởng lợi từ việc tổ chức sòng tài xỉu của D); T bỏ ra trước số tiền 1.300.000 đồng làm cái. D điện thoại rủ những con bạc đến địa điểm đánh bạc, gọi L đến sòng tài xỉu để bán nước uống và cảnh giới.

Đến khoảng 19 giờ, sòng tài xỉu hoạt động do T làm cái chung chi, những người đặt cược gồm:

1.Võ Thị M sử dụng số tiền 1.900.000 đồng, 2. Trương Mạnh H sử dụng số tiền 1.200.000 đồng.

3. H đặt cược 2 đến 3 ván không thắng, không thua nên nghỉ chơi.

Tổng số tiền sử dụng đánh bạc đợt này 46.800.000 đồng.

Sau khi H nghỉ chơi, T tiếp tục làm cái, T phụ T chung chi tiền; D và Q đứng quan sát. Những người đặt cược gồm T, T, T, S, D, M, Hóa T; số tiền sử dụng đánh bạc của những con bạc như sau:

1. D đánh bạc số tiền 21.700.000 đồng, khi Công an bắt chưa biết thắng thua, D bị tạm giữ số tiền 21.700.000 đồng.

2. T đánh bạc số tiền 12.000.000 đồng, khi chơi thắng được 2.000.000 đồng, T đưa tiền cho T chung chi, khi bị bắt tạm giữ của T số tiền 10.700.000 đồng.

3. T đánh bạc số tiền 400.000 đồng, khi chơi thắng lên được để đánh bạc 2.000.000 đồng,T đưa 2.000.000 đồng cho T chung chi, chơi thắng thêm được số tiền 1.300.000 đồng, khi Công an bắt T bỏ số tiền 3.300.000 đồng tại chiếu bạc; tạm giữ của T số tiền 400.000 đồng.

4. Q mang theo số tiền 4.100.000 đồng đánh bạc, khi bị bắt tạm giữ của Q số tiền 4.100.000 đồng.

5. T đánh bạc số tiền 9.430.000 đồng, đến khi bị bắt T thua số tiền 400.000 đồng và bị thu giữ số tiền 9.030.000 đồng.

6. Tuấn T đánh bạc số tiền 3.000.000 đồng, thua số tiền 100.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ số tiền 2.900.000 đồng.

7. T đánh bạc số tiền 11.000.000 đồng, thắng được số tiền 800.000 đồng, khi bị bắt bị bị thu giữ số tiền 11.800.000 đồng.

8. D đánh bạc số tiền 3.950.000 đồng, bị thua 100.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ số tiền 3.850.000 đồng.

9. S đánh bạc số tiền 2.100.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 2.100.000 đồng.

10. M đánh bạc số tiền 1.900.000 đồng, thua số tiền 100.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ số tiền 1.800.000 đồng.

11. Hóa T đánh bạc số tiền 1.400.000 đồng, thắng số tiền 100.000 đồng, khi bị bắt bị tạm giữ số tiền 1.500.000 đồng.

Đến 21 giờ cùng ngày, Công an huyện TB bắt quả tang, thu giữ tại chiếu bạc số tiền 9.800.000 đồng, 18 hột xí ngầu, 03 cái đĩa nhỏ, 03 chung bằng nhựa.

Tổng số tiền dùng vào mục đích đánh bạc 77.680.000 đồng.

* Vật chứng vụ án: Tiền Việt Nam 80.680.000 đồng; 03 bộ dụng cụ lắc tài xỉu gồm: 18 hạt xí ngầu, 03 cái chung bằng nhựa và 03 đĩa nhỏ; 01 tấm manh và nhiều tài sản khác.

Bản án Hình sự sơ thẩm số: 36/2021/HS-ST ngày 18 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện TB, tỉnh Tây Ninh đã quyết định:

1. Căn cứ vào điểm a, c, d khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trần Thanh D 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trần Thanh D 01 (một) năm tù về tội “Đánh bạc”. Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự; bị cáo Trần Thanh D phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án và được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 07-11- 2020 đến ngày 04-02-2021.

2. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 03 (ba) năm tù về tội “Đánh bạc”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07-11- 2020.

3. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Hóa T 03 (ba) năm tù về tội “Đánh bạc”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án và được trừ khấu thời gian tạm giữ từ ngày 01-3-2021 đến ngày 12-3-2021.

4. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Mai Phước T 01 (một) năm tù về tội “Đánh bạc”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án và được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 07-11-2020 đến ngày 04-02-2021.

5. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trương Văn Minh T 01 (một) năm tù về tội “Đánh bạc”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án và được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 07-11-2020 đến ngày 04-02-2021.

Bản án sơ thẩm còn quyết định trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Huỳnh Văn L, Lê Minh T, Trần Văn Q, Nguyễn Tuấn T, Võ Thị M, Võ Minh S, Đỗ Mỹ D, Trương Mạnh H; các biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 19 tháng 5 năm 2021, bị cáo Nguyễn Văn T có đơn kháng cáo, xin giảm nhẹ hình phạt, lý do mức án nặng.

Ngày 31 tháng 5 năm 2021, bị cáo Nguyễn Hoá T có đơn kháng cáo, xin giảm nhẹ hình phạt, lý do tuổi cao, chỉ tham gia đặt cược 01 ván số tiền 100.000 đồng, đã nộp xong số tiền 1.500.000 đồng nhưng bản án sơ thẩm cho rằng chưa nộp là không đúng.

Ngày 24 tháng 5 năm 2021, bị cáo Trần Thanh D có đơn kháng cáo, nội dung xin giảm nhẹ hình phạt, lý do lần đầu phạm tội, đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo, hoàn cảnh khó khăn, đang nuôi dưỡng mẹ già 70 tuổi, vợ đang mang thai, mức án 03 năm 06 tháng tù là quá nặng.

Ngày 24 tháng 5 năm 2021, bị cáo Trương Văn Minh T có đơn kháng cáo, xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo, lý do lần đầu phạm tội, chưa có tiền án tiền sự, hoàn cảnh khó khăn, mức án 12 tháng tù là nghiêm khắc.

Ngày 21 tháng 5 năm 2021, bị cáo Mai Phước T có đơn kháng cáo, xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo, lý do lần đầu phạm tội, đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo, hoàn cảnh khó khăn, đang nuôi dưỡng mẹ già 71 tuổi và hai con nhỏ.

Tại phiên tòa: Các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo Trần Thanh D, Mai Phước T (T k), Nguyễn Văn T, Trương Văn Minh T(tự C). Đối với bị cáo Nguyễn Hóa T có tiền án nhưng mức án 3 năm tù là nghiêm khắc, đề nghị chấp nhận 1 phần kháng cáo, giảm nhẹ 1 phần hình phạt đối với bị cáo T; đề nghị xử phạt từ 12 tháng đến 18 tháng tù.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Trần Thanh D, Nguyễn Văn T trình bày: Cho rằng bị cáo D tổ chức đánh bạc quá nặng, vì dân lao động nghèo không ai rủ rê ai; gia đình khó khăn, nghèo nên tụ tập nhau; đề nghị chuyển tội danh sang đánh bạc. Đối với bị cáo T đã nộp số tiền thi hành bản án 25.000.000 đồng, gia đình nghèo.

Các bị cáo không tranh luận và lời nói sau cùng đều có yêu cầu như đơn kháng cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Xét các hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm đều hợp pháp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xác định trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án tại cấp sơ thẩm, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Ngày 07-11-2020 tại ấp M, xã TP, huyện TB, tỉnh Tây Ninh; Trần Thanh D đã tổ chức cho các đối tượng đánh bạc lắc tài xỉu, thắng thua bằng tiền, cụ thể:

[2.1] Vào khoảng 13 giờ 00 phút, Nguyễn Văn T làm cái cho Trần Thanh D, Mai Phước T, Lê Minh T, Trần Văn Q, Nguyễn Tuấn T, Trương Văn Minh T, Võ Thị M, Trương Mạnh H cá cược thắng thua bằng tiền, đến 17 giờ 00 phút cùng ngày nghỉ, tổng số tiền đánh bạc xác định 18.200.000 đồng.

[2.2] Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Trần Thanh D, Mai Phước T, Lê Minh T, Trần Văn Q làm cái cho Nguyễn Văn T, Nguyễn Tuấn T, Trương Văn Minh T, Đỗ Mỹ D, Võ Minh S, Võ Thị M, Nguyễn Hóa T, Trương Mạnh H cá cược, hoạt động đến 21 giờ cùng ngày bị bắt quả tang. Tổng số tiền đánh bạc xác định 77.680.000 đồng. Trương Mạnh H đánh bạc và đã nghỉ chơi trước khi bị bắt, nên tổng số tiền đánh bạc lúc này được xác định 46.800.000 đồng.

[2.3] Toà án sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Thanh D về tội “Tổ chức đánh bạc”; theo điểm a c d khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự; các bị cáo Trần Thanh D, Mai Phước T, Nguyễn Văn T, Trương Văn Minh T, Nguyễn Hóa T về tội “Đánh bạc ”, theo điểm b khoản 2 Điều 321 của Bộ luật Hình sự đúng pháp luật.

[2.4] Các bị cáo D, L, T, T, T, Q, Tuấn T, tham gia đánh bạc nhiều lần, nhưng Tòa án sơ thẩm không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự cần rút kinh nghiệm.

[3] Vụ án có tính chất nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo nguy hiểm cho xã hội, số tiền các bị cáo dùng đánh bạc trên 50.000.000 đồng, tổ chức cho 10 người trở lên trong cùng một lúc, tổng số tiền đánh bạc trong cùng một lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên, xâm phạm đến trật tự công cộng, ảnh hưởng đến kinh tế gia đình của những người tham gia đánh bạc. Hành vi này có thể làm phát sinh các tội phạm khác, đồng thời gây mất trật tự trị an xã hội cần nghiêm trị.

[4] Xét kháng cáo của các bị cáo.

4.1. Trần Thanh D có hành vi tổ chức cho 11 đối tượng đánh bạc trong cùng một lúc để thu tiền xâu, thuê Huỳnh Văn L đến sòng bạc để bán nước uống cho con bạc và cảnh giới lực lượng chức năng, gọi điện thoại rủ con bạc đến đánh bạc, bị cáotrực tiếp đánh bạc với số tiền nhiều nhất 21.700.000 đồng; do đó Tòa án sơ thẩm xử phạt bị cáo 01 năm tù về tội “ Đánh bạc” là tương xứng với mức độ và hành vi của bị cáo. Tuy nhiên đối với hành vi tổ chức đánh bạc, bị cáo nhận tiền thu lợi bất chính không lớn, mục đích của bị cáo tổ chức sòng bạc để cùng tham gia đánh bạc; do đó Tòa sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 2 năm 06 tháng tù có nghiêm khắc. Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án và không có tiền sự; thuộc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nhưng Tòa án sơ thẩm chưa xem xét; Tòa án phúc thẩm chấp nhận 1 phần kháng cáo của bị cáo; giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho bị cáo.

4.2 Nguyễn Văn T tham gia đánh bạc số tiền 9.430.000 đồng, bị cáo đã bị phạt hành chính về hành vi đánh bạc vào năm 2017, đến năm 2019 bị Tòa án kết tội “ Đánh bạc ” và bị phạt tiền đến nay chưa thi hành, lần phạm tội này là tái phạm; Tòa án sơ thẩm xử phạt bị cáo 03 năm tù, khởi điểm của khung hình phạt, mức án không nặng. Tại phiên Tòa phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

4.3 Bị cáo Nguyễn Hóa T đánh bạc số tiền 1.400.000 đồng, thắng bạc được 100.000 đồng/ván; bị cáo có tiền án đến nay chưa được xóa án tích, năm 2020 bị phạt hành chính về hành vi đánh bạc, lần phạm tội này là tái phạm. Tuy nhiên, bị cáo Hóa T có tiền án về tội danh “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ”; trong vụ án này, bị cáo đánh bạc số tiền ít hơn so các bị cáo; nhưng Tòa án sơ thẩm phạt bị cáo Hóa T 03 năm tù là nghiêm khắc. Tại Tòa phúc thẩm, bị cáo Hóa T cung cấp tài liệu chứng minh cho việc bị cáo có nhiều bệnh lý để làm căn cứ xin giảm nhẹ hình phạt. Theo các tài liệu của Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình Thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện nhân dân 115, Bệnh viện Đa khoa Tây Ninh từ tháng 9 đến tháng 12-2020 thể hiện bị cáo viêm khớp gối, loãng xương, thối hóa cột sống, thoái hóa khớp; tài liệu của Bệnh viện Đa khoa Tây Ninh tháng 02-2021, thể hiện bị cáo bị gãy đầu trên xương cánh tay phải, gai xương bánh chè trái; những tình tiết này thuộc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Tòa án sơ thẩm chưa xem xét; do đó chấp nhận 1 phần kháng cáo của bị cáo; giảm nhẹ 1 phần hình phạt.

4.4. Bị cáo Mai Phước T có trực tiếp làm cái, nhưng số tiền đánh bạc 12.000.000 đồng ít hơn so bị cáo D; nhưng bị cáo T bị xử phạt 01 năm tù bằng với bị cáo D về tội “ Đánh bạc ” là chưa phù hợp. Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự thuộc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Tòa án sơ thẩm chưa xem xét. Tại Tòa án phúc thẩm, bị cáo đã nộp tiền phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng, theo quyết định của bản án sơ thẩm; thể hiện có ý thức chấp hành pháp luật; do đó chấp nhận kháng cáo của bị cáo; chuyển hình phạt 01 năm tù sang hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo đủ tác dụng răn đe và giáo dục bị cáo.

4.5. Trương Văn Minh T tham gia đánh bạc với số tiền 11.000.000 đồng, thắng bạc số tiền 800.000 đồng, ít hơn so bị cáo T. Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự; thuộc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Tòa án sơ thẩm chưa xem xét; do đó chấp nhận kháng cáo của bị cáo; chuyển hình phạt 01 năm tù sang hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo đủ tác dụng răn đe và giáo dục bị cáo.

[5] Chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về giảm nhẹ 1 phần hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Hóa T; nhưng đề nghị của Kiểm sát viên không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Thanh D, Mai Phước T, Trương Văn Minh T chưa phù hợp. Chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T. Không chấp nhận luận cứ bào chữa của Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Thanh D và bị cáo Nguyễn Văn T.

[6] Án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ điểm b, d khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

6.1 Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu số tiền 200.000 đồng.

6.2 Các bị cáo D, T, T và Hóa T được chấp nhận kháng cáo, không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm [7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 355; 356 và Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

2. Chấp nhận 1 phần kháng cáo của các bị cáo Trần Thanh D, Mai Phước T (T k), Trương Văn Minh T (tự C) và Nguyễn Hóa T;

3. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T.

4. Sửa Bản án Hình sự sơ thẩm số: 36/2021/HS-ST ngày 18 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện TB, tỉnh Tây Ninh.

4.1 Căn cứ điểm a, c, d khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trần Thanh D 02 (hai) năm tù về tội “ Tổ chức đánh bạc ”.

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trần Thanh D 01 (một) năm tù về tội “ Đánh bạc ”.

Căn cứ vào Điều 55 của Bộ luật Hình sự; buộc bị cáo Trần Thanh D phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 03 (ba) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án và được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 07-11-2020 đến ngày 04-02-2021.

4.2 Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 03 (ba) năm tù về tội “ Đánh bạc ”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07- 11-2020.

4.3 Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Hóa T 12 (mười hai) tháng tù về tội “ Đánh bạc ”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án và được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 01-3-2021 đến ngày 12-3-2021.

4.4 Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Mai Phước T (T k) 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội: “ Đánh bạc ”; thời gian thử thách 02 năm kể từ ngày bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.

Giao bị cáo Mai Phước T (Thành K) về Ủy ban nhân dân xã TP, huyện TB, tỉnh Tây Ninh giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trưng hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú, thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên; Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Ghi nhận bị cáo Mai Phước T (T k) đã nộp số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng phạt bổ sung, theo Biên lai thu số: 0001971 ngày 07-7-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TB, tỉnh Tây Ninh.

4.5 Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54, 65 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trương Văn Minh T ( tự C) 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội:“Đánh bạc”; thời gian thử thách 02 năm kể từ ngày bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.

Giao bị cáo Nguyễn Văn Minh T ( tự c) về Ủy ban nhân dân xã TP, huyện TB, tỉnh Tây Ninh giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trưng hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú, thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên; Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

5 Án phí: Căn cứ điểm b, d khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

5.1 Các bị cáo Trần Thanh D, Mai Phước T (T k),Trương Văn Minh T ( tự C), Nguyễn Hóa T đều không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm;

5.2 Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu số tiền 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

6. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 156/2021/HS-PT ngày 14/10/2021 về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc

Số hiệu:156/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;