Bản án 156/2018/HNGĐ-ST ngày 23/10/2018 về ly hôn, con chung khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 156/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/10/2018 VỀ LY HÔN, CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 23 tháng 10 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 539/2018/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 2018 về việc “Ly hôn, con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 202/2018/QĐXX-ST ngày 29 tháng 9 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 137/2018/QĐST-HNGĐ, ngày 17 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị T; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố Q, thị trấn Mi, huyện T, thành phố H; Nơi ở hiện nay: Tổ dân phố Q, thị trấn M, huyện T, thành phố H; Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Đỗ Văn H (tên gọi khác Đỗ Thanh T); Nơi cư trú: Tổ dân phố Q, thị trấn M, huyện T, thành phố H; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Lê Thị T trình bày: Chị kết hôn với anh Đỗ Văn H trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn M, huyện T, thành phố H vào năm 2001. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống với nhau tại khu Q, thị trấn M, huyện T, thành phố H. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, trong làm ăn kinh tế, nuôi dạy con nên dẫn đến vợ chồng thường hay xảy ra mâu thuẫn cãi mắng nhau. Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị và anh Đỗ Văn H đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng và không còn khả năng đoàn tụ đến giữa năm 2015 chị về sinh sống tại khu Q, thị trấn M, huyện T, thành phố H, từ đó đến nay không ai quan tâm đến ai. Nay chị Lê Thị T khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Đỗ Văn H khôngcòn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đỗ Văn H.

Về con chung: Chị Lê Thị T trình bày vợ chồng chị có 02 con chung tên Đỗ Thị H, sinh ngày 12/4/2002 và Đỗ Văn H, sinh ngày 01/02/2004. Khi ly hôn chị T đề nghị được Tòa án giải quyết cho chị được nuôi con chung. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung để chị và anh Đỗ Văn H tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Lê Thị T trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai và không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Đỗ Văn H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về việc kiểm tra giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai anh Đỗ Văn H vẫn không có ý kiến trình bày về yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Lê Thị T.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án đã thực hiện cơ bản đúng, đầy đủ quy định của pháp luật. Tuy nhiên Thẩm phán đưa Giấy ủy quyền của đương sự để giải quyết vụ án ly hôn vào hồ sơ vụ án là vi phạm quy định tại Điều 198, Điều 204 và khoản 4, Điều 85 của Bộ luật tố tụng dân sự và việc giao Quyết định, Văn bản tố tụng của Tòa án cho cháu Đỗ Thị H, sinh ngày 12/4/2002 (là con) để gửi cho anh Đỗ Văn H là vi phạm quy định tại khoản 5, Điều 177 Bộ luật tố tụng dân sự. Bởi lẽ cháu Đỗ Thị H, chưa đủ 18 tuổi (chưa đủ năng lực hành vi dân sự) do đó việc tống đạt không đảm bảo theo đúng quy định. Việc chuyển Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa vi phạm tố tụng vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 220 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chị Lê Thị T có mặt; bị đơn là anh Đỗ Văn H đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, Kiểm sát viên đề nghị Tòa án căn cứ Điều 28; Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Lê Thị T; tiến hành xét xử vắng mặt anh Đỗ Văn H. Về con chung và tài sản chung đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật giải quyết.

Các tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp gồm: Bản sao Giấy khai sinh của các con; Bản sao Sổ hộ khẩu gia đình; Giấy chứng nhận kết hôn; Bản sao Giấy chứng minh nhân dân mang tên Lê Thị T; Giấy khai sinh mang tên Lê Thị T. Các tài liệu chứng cứ do Tòa án thu thập là Biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện T, thành phố H và Công an thị trấn M đã đảm bảo đầy đủ, đúng trình trình tự tố tụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Lê Thị T có mặt; bị đơn là anh Đỗ Văn H đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Đỗ Văn H.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị T và anh Đỗ Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau. Do mâu thuẫn nên vợ chồng chị Lê Thị T và anh Đỗ Văn H đã sống ly thân nhau từ năm 2015 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị Lê Thị T khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Đỗ Văn H không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết xin được ly hôn anh Đỗ Văn H.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng anh Đỗ Văn H đều vắng mặt không có lý do và không có ý kiến trình bày về yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị T. Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh H đã kéo dài nhiều năm nay, chị T đã ra ngoài sinh sống, vợ chồng đã sống ly thân nhau một thời gian dài đến nay không còn quan tâm nhau. Điều đó thể hiện hôn nhân giữa chị Lê Thị T và anh Đỗ Văn H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy căn cứ Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị T, cho chị Lê Thị T được ly hôn anh Đỗ Văn H.

[3]. Về con chung: Chị Lê Thị T và anh Đỗ Văn H có 02 con chung tên: Đỗ Thị H, sinh ngày 12/4/2002 và Đỗ Văn H, sinh ngày 01/02/2004. Khi ly hôn chị Lê Thị T đề nghị được nuôi cả hai con chung. Trong quá trình giải quyết vụ án anh Đỗ Văn H không có ý kiến trình bày về con chung, tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần xem xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên. Tài liệu xác minh tại địa phương và nguyện vọng của hai con chung là muốn được sống cùng chị Lê Thị T để ổn định cuộc sống. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận giao 02 con chung cho chị Lê Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, cho đến khi cả hai con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Lê Thị T trình bày để chị và anh Đỗ Văn H tự thỏa thuận giải quyết không yêu cầu Tòa án. Quá trình giải quyết vụ án, anh Đỗ Văn H chưa có ý kiến trình bày về cấp dưỡng nuôi con chung, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4]. Về tài sản chung: Chị Lê Thị T trình bày vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Quá trình giải quyết vụ án, anh Đỗ Văn H chưa có ý kiến trình bày về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Chị Lê Thị T phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, xử :

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Lê Thị T được ly hôn anh Đỗ Văn H.

2. Về con chung: Giao hai con chung tên Đỗ Thị H, sinh ngày 12/4/2002 và Đỗ Văn H, sinh ngày 01/02/2004 cho chị Lê Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, cho đến khi cả hai con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Lê Thị T phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009262, ngày 01 tháng 8 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên thành phố Hải Phòng. Chị Lê Thị T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án tống đạt hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tạiĐiều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

546
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 156/2018/HNGĐ-ST ngày 23/10/2018 về ly hôn, con chung khi ly hôn

Số hiệu:156/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;