TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 156/2017/HSST NGÀY 24/08/2017 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 24 tháng 8 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 160/HSST ngày 24 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:
Đinh Quang V, sinh năm 1971; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký NKTT: Thôn 2, xã P, huyện B, thành phố Hà Nội; Trình độ văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Nguyên là nhân viên Trạm y tế phường X, quận N, Hà Nội, từng là quân nhân, xuất ngũ từ ngày 06/01/2008; Bô: Đinh Văn V, sinh năm 1941 (Đã chết); Mẹ: Lê Thị T, sinh năm 1941; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Vợ: Hoàng Thị V, sinh năm 1979; Nghề nghiệp: Kỹ sư mỏ; Có 02 con; Con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2007; Tiến án, tiền sự: Không; Theo Danh bản, chỉ bản số 233, lập ngày 08/5/2017 tại Công an quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội. Bị cáo là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng theo Quyết định đình chỉ sinh hoạt Đảng số 34/QĐ- UBKT ngày 19/6/2017 của Ủy ban kiểm tra Quận ủy NTL, thành phố Hà Nội.
Bị cao bị bắt ngày 08/5/2017, hiện đang tạm giam tại trại giam số 1 Công an thành phố Hà Nội - Có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại:
1. Anh Hoàng Văn Đ, sinh năm 1972; Đăng ký NKTT: Khu Công Binh, phường V, thành phố N, tỉnh Bắc Ninh.
2. Anh Nguyễn Gia L, sinh năm 1965; Đăng ký NKTT: thôn P, xã P, huyện B, thành phố Hà Nội;
3. Anh Lã Văn L, sinh năm 1968; Đăng ký NKTT: đội 1, thôn V, xã C, huyện B, thành phố Hà Nội;
4. Anh Lã Huy H, sinh năm 1994; Đăng ký NKTT: đội 1, thôn V, xã C, huyện B, thành phố Hà Nội;
5. Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1992; Đăng ký NKTT: thôn P, xã P, huyện B, thành phố Hà Nội;
Anh L, anh L, anh H, chị N ủy quyền cho anh Hoàng Văn Đ thay mặt tham gia tố tụng tại Tòa án theo Văn bản ủy quyền ngày 24 tháng 5 năm 2017 (BL 160) - Anh Đ vắng mặt tại phiên tòa.
NHẬN THẤY
Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Đinh Quang V và anh Hoàng Văn Đ là người cùng quê và từng công tác tại đơn vị cũ ở Lữ đoàn Công binh 229 Bộ tư lệnh công binh nên thường xuyên liên lạc với nhau. Cuối năm 2014, V giới thiệu với anh Đ là đang công tác tại Phòng Tuyên giáo – Quận ủy quận NTL nên có quen biết một số người có khả năng xin việc, nếu ai cần xin việc thì V sẽ xin cho. Khoảng tháng 1/2015, anh Đ có nhờ V xin cho cháu là Nguyễn Thị N vào làm kế toán tại phòng Y tế quận NTL với giá 100.000.000 đồng và 5.000.000 đồng để đưa ngoài. Cũng trong thời gian này, V nói có 01 suất lái xe cho lãnh đạo quận NTL với giá là 50.000.000 đồng và 2.000.000 đồng tiền chống trượt thi sát hạch lái xe. Anh Đ đồng ý và nhờ xin cho hai cháu là chị Nguyễn Thị N và anh Lã Huy H với tổng số tiền là 157.000.000 đồng của gia đình anh Hoàng Văn Đ đưa cho V chia thành 07 lần. Cụ thể:
Lần thứ nhất: Ngày 10/01/2015 anh Hoàng Văn Đ cùng vợ là chị Lã Thị T đưa Đinh Quang V 50.000.000 đồng và 01 bộ hồ sơ xin việc của cháu Nguyễn Thị N tại quán ăn vỉa hè thuộc phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Lần thứ hai: Ngày 14/01/2015, anh Nguyễn Gia L là bố đẻ của chị Nguyễn Thị N mang 20.000.000 đồng đưa cho V tại quán nước gần bến xe thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.
Lần thứ ba: Ngày 24/01/2015 anh Nguyễn Gia L tiếp tục đưa V 35.000.000 đồng tại một quán cà phê trên đường Nguyễn Đổng Chi, phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Lần thứ 4: Anh Lã Văn L là bố của anh Lã Huy H đưa cho Đinh Quang V 40.000.000 đồng tại quán ăn vỉa hè thuộc phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Lần thứ 5: Ngày 17/02/2015 tại nhà của anh Hoàng Văn Đ ở Phú Cường, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, anh Đ đưa V 3.000.000 đồng.
Lần thứ 6: Ngày 08/3/2015 tại khu Suối Hoa, phường Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, anh Đ đưa V 7.000.000 đồng.
Lần thứ 7: Khoảng giữa tháng 4/2015, anh Lã Huy H đưa cho V 2.000.000 đồng ở khu vực Cầu Giấy đối diện trường Đại học Giao thông vận tải, V nói là tiền chống trượt khi thi lái xe.
Sau khi nhận tiền, Đinh Quang V hứa hẹn xin việc cho chị N đi làm khoảng tháng 3/2015; Anh H khoảng tháng 10/2015 nhưng đến nay chưa xin được việc. Ngày 24/9/2015, V viết giấy biên nhận nợ tiền 100.000.000 đồng của anh Đ để lo việc cho cháu N và 50.000.000 đồng để lo việc cho H. Nếu việc của hai cháu không thành thì hoàn trả lại tiền cho anh Đ.
Ngày 31/8/2016, anh Hoàng Văn Đ giao nộp Công an quận Bắc Từ Liêm 02 tờ giấy biên nhận giữa anh Đ và Đinh Quang V.
Ngày 20/12/2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm ra Quyết định trưng cầu giám định chữ viết số 746/ĐTTH.
Tại Bản kết luận giám định chữ viết, chữ ký số 08/KLGĐ-PC54 ngày 05/01/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: “Chữ viết, chữ ký đứng tên Đinh Quang V trên “Giấy biên nhận”, đề ngày 24/9/2015 (Ký hiệu A1); Tài liệu viết trên giấy kẻ ngang có nội dung “Cộng hòa xã hội....trách nhiệm trước pháp luật” (Ký hiệu A2) với chữ viết, chữ ký đứng tên Đinh Quang V trên “Bản tường trình” , đề ngày 7/7/2016 (ký hiệu M1); “Biên bản ghi lời khai”, đề ngày 7/7/2016 (Ký hiệu M2) là chữ do cùng một người viết và ký ra”.
Ngày 25/01/2016, xác minh tại Ban tuyên giáo, quận ủy NTL, thành phố Hà Nội xác định: Hiện nay và trước đây tại Ban tuyên giáo quận ủy NTL không có ai tên Đinh Quang V công tác tại đây.
Ngày 20/02/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm cho những người bị hại là anh Hoàng Văn Đ, chị Nguyễn Thị N, anh Lã Huy H, anh Nguyễn Gia L nhận dạng được Đinh Quang V.
Ngày 08/5/2017, Đinh Quang V bị bắt theo quyết định truy nã số 15/(ĐTTH) ngày 05/5/2017.
Về trách nhiệm dân sự: Ngày 28/5/2017, gia đình Đinh Quang V đã tự nguyện bồi thường cho gia đình anh Hoàng Văn Đ số tiền 60.000.000 đồng.
Tại cơ quan điều tra Đinh Quang V khai nhận hành vi của mình như trên và khai do mở phòng khám tư nhân nhưng làm ăn thua lỗ nên V nghĩ lợi dụng các mối quan hệ của mình nếu ai xin việc sẽ nhận và dùng số tiền người ta nhờ để chi phí cho phòng khám của mình. Khi xin việc cho hai cháu Nguyễn Thị N, anh Lã Huy H, V đã nói với gia đình anh Hoàng Văn Đ là đang công tác ở phòng tuyên giáo quận NTL để gia đình anh Đ thấy được vị trí công tác, tin tưởng và nhờ V xin việc, thực chất V không làm ở phòng tuyên giáo quận ủy NTL mà chỉ làm ở Trạm y tế phường X, quận NTL, Hà Nội nên không có khả năng xin được việc cho hai cháu. V có cầm 02 bộ hồ sơ xin việc của chị Nguyễn Thị N và anh Lã Huy H nhưng do chuyển nơi làm việc nên đã bị thất lạc.
Tại bản Cáo trạng số 158/QĐ-VKS ngày 20/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm truy tố bị cáo Đinh Quang V về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điểm e Khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã khai tại cơ quan điều tra và khai: Trong lúc làm ăn gặp khó khăn nên bị cáo đã suy nghĩ nông nổi dẫn đến phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm và làm lại cuộc đời.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm giữ nguyên quyết định của bản cáo trạng đã truy tố, sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm e Khoản 2 Điều 139; Điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đinh Quang V mức án từ 24 đến 30 tháng tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;
- Về dân sự: Người bị hại đã nhận lại toàn bộ số tiền do bị cáo chiếm đoạt, đến nay không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.
- Về vật chứng: Không;
- Do bị cáo hiện đang trong trại giam, không có việc làm, không có khả năng thi hành, nên không áp dụng hình phạt phụ là phạt tiền theo khoản 5 Điều 139 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo:
XÉT THẤY
Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người bị hại cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở để xác định:
Từ ngày 10/01/2015 đến khoảng giữa tháng 4/2015, tại nhiều địa điểm khác nhau trên địa bàn thành phố Hà Nội trong đó có địa bàn phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Đinh Quang V không có khả năng xin việc cho chị Nguyễn Thị N và anh Lã Huy H, bị cáo dùng thủ đoạn gian dối tự giới thiệu với người bị hại là đang công tác ở Phòng Tuyên giáo quận NTL để gia đình anh Đ, tin tưởng và nhờ V xin việc làm cho các cháu nhà anh Đ, thực chất V không làm ở Phòng tuyên giáo quận NTL mà bị cáo làm ở Trạm y tế phường X, quận NTL, mục đích để chiếm đoạt của các người bị hại tổng số tiền là 157.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Với giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt là 157.000.000 đồng thì bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm e Khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự.
Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất trật tự xã hội, vì vậy đối với bị cáo cần phải lên một mức án tương xứng với hành vi của bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng xem xét, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; Trong quá trình điều tra bị cáo đã động viên gia đình bồi thường toàn bộ số tiền mà bị cáo đã chiếm đoạt của các người bị hại; Người bị hại có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo; Hơn nữa bản thân bị cáo trước đây từng là quân nhân trong quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Do bị cáo hiện đang tạm giam, chưa có việc làm, không có khả năng thi hành nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về dân sự: Các người bị hại đã nhận tiền bồi thường trước khi Tòa án mở phiên tòa hiện không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xét.
Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Căn cứ nhận định trên, Hội đồng xét xử:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bô bị cáo Đinh Quang V phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
2. Áp dụng Điểm e Khoản 2 Điều 139; Điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự:
- Xử phạt bị cáo Đinh Quang V 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày 08/5/2017.
3. Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 99, Điều 231, Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:
- Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Án xử sơ thẩm công khai bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
- Các người bị hại vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 156/2017/HSST ngày 24/08/2017 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 156/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/08/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về