Bản án 155/2023/HS-ST về tội tiêu thu tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 155/2023/HS-ST NGÀY 27/12/2023 VỀ TỘI TIÊU THU TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 27 tháng 12 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 169/2023/HS- ST, ngày 01/12/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 147/2023/QĐXXST- HS ngày 11/12/2023, đối với bị cáo:

NGUYỄN VĂN H (Tên khác: G Nh) - sinh năm: 1997; tại thành phố Hồ Chí Minh.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 4, khu phố 1, Phường A L Đ, thành phố Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.

Nơi cư trú: Ấp 7, xã Ph Th, huyện T, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Trung H – sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị Đ – sinh năm 1970; vợ, con; Chưa có; tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 02/4/2021, bị Tòa án nhân dân T, tỉnh Đồng Nai xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 45/2021/HS-ST.

Ngày 12/01/2022, bị Tòa án nhân dân T, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm 08 tám tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 02/2022/HS-ST.

Nhân thân: Ngày 07/8/2020, bị Công an xã Phú Thịnh, huyện T, tỉnh Đồng Nai xử phạt vi phạm vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/6/2023 đến ngày 01/7/2023 chuyển tạm giam tại hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T, tỉnh Đồng Nai (có mặt tại phiên tòa).

- Người bị hại: bà Nguyễn Thị L – sinh năm 1970. (Có yêu cầu xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp 4, xã Phú An, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Ngọc Tr - sinh năm 1996. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 2, xã T L, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

2. Ông Vày Say C - sinh năm 1996. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 2, xã T L, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

3. Ông Nguyễn Hoàng A – sinh năm 1990. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 7, xã Ph Th, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn H, sinh năm 1997, ngụ ấp 7, xã Ph Th, huyện T, tỉnh Đồng Nai, có 02 tiền án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích và là đối tượng nghiện ma túy.

Khoảng 19 giờ ngày 24/6/2023, khi H đang ở nhà thì nhận được điện thoại của một đối tượng tên Tr và C nói H chạy vào trong xã Tà Lài để chở sầu riêng của Tr và C trộm cắp được mang đi tiêu thụ thì H đồng ý. Sau đó, H điều khiển xe mô tô biển số 60V6 – A1 chở theo một sọt sắt chạy vào Km13 đường Tà L và gọi cho Tr thì C bắt máy và nói H chạy đến đoạn đường Suối Gấm thuộc ấp 4, xã Phú An, huyện T. Khi đến nơi, C và Tr dẫn H đến vườn sầu riêng của bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1970, ngụ ấp 4, xã Phú An, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Tại đây, C và Tr sắp xếp sầu riêng trộm cắp được lên xe mô tô của H để mang đi tiêu thụ. Trên đường đi, H bị tổ tuần tra Công an xã Phú An phát hiện, yêu cầu kiểm tra và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn H về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tang vật thu giữ:

- 64kg sầu riêng thái gồm 52kg loại I, 12kg loại II.

- 01 xe mô tô biển số 60V6 – A1, 01 điện thoại Nokia màu đen, 01 sọt sắt để chở sầu riêng.

Trị giá tài sản thiệt hại: Tại Kết luận định giá tài sản số 38/KL.HĐĐGTS ngày 26/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T kết luận: 64kg sầu riêng thái, trong đó 52kg loại I, 12kg loại II có giá trị 4.076.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 166/CT-VKSTP-ĐN, ngày 22/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo điểm đ khoản 2 Điều 323 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình giống với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, không bổ sung gì thêm.

Tại phiên tòa, sau khi phân tích các dấu hiệu phạm tội, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; đặc điểm nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 323, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 03 năm 06 tháng tù đến 04 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/6/2023.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại bà Nguyễn Thị L đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét, giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Đối với 01 điện thoại di động Nokia là công cụ dùng vào việc phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Đối với 01 sọt sắt là công cụ dùng vào việc phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

Đối với 64kg sầu riêng thái gồm 52kg loại I, 12kg loại II là tài sản hợp pháp của bà Nguyễn Thị L nên Công an huyện T, tỉnh Đồng Nai đã trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp.

Đối với 01 xe mô tô biển số 60V6 – A1 là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Hoàng A nên Công an huyện T, tỉnh Đồng Nai đã trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp.

Về vấn đề khác: Quá trình điều tra, bị cáo H khai nhận Tr, C là người trộm cắp sầu riêng nhà bà Nguyễn Thị L và gọi bị cáo đến để chở sầu riêng đi tiêu thụ.

Công an huyện T, tỉnh Đồng Nai đã tiến hành xác minh, thu thập hình ảnh thì phát hiện có 02 đối tượng tình nghi là Vầy Say C - sinh năm 1996 và Nguyễn Ngọc Tr - sinh năm 1996, cùng địa chỉ: Ấp 2, xã Tà Lài, huyện T, tỉnh Đồng Nai, làm việc với Tr nhưng Tr không thừa nhận hành vi phạm tội của mình còn đối tượng C đã bỏ đi khỏi địa phương chưa làm việc được. Ngoài lời khai của bị cáo Nguyễn Văn H thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh hành vi phạm tội của Vầy Say C và Nguyễn Ngọc Tr nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã ra Quyết định tách vụ án hình sự số 02/QĐ-CQĐT ngày 23/10/2023 để tiếp tục điều tra hành vi trộm cắp tài sản.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo không tranh luận với Kiểm sát viên.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về để nuôi dưỡng mẹ già.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Vụ án không thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Người bị hại bà Nguyễn Thị L; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Ngọc Tr, ông Vầy Say C, ông Nguyễn Hoàng A vắng mặt tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Xét trong quá trình điều tra bà L, ông A đã có lời khai, đã nhận lại tài sản và cũng không có yêu cầu gì đối với bị cáo Nguyễn Văn H nên việc vắng mặt của bà L, ông A, bà Tr, ông C không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa nên có căn cứ để xác định: Vào ngày 24/6/2023, bị cáo Nguyễn Văn H đã có hành vi chở 64kg sầu riêng gồm 52kg loại I, 12kg loại II, trị giá trị 4.076.000 đồng là tài sản do trộm cắp mà có mang đi tiêu thụ thì bị Công an xã Phú An quả tang cùng tang vật.

Hội đồng xét xử nhận thấy hành vi của bị cáo Nguyễn Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 323 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo điểm b khoản đ Điều 323 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đồng thời gián tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, cần xử phạt bị cáo với mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mới có tác dụng giáo dục, răn đe cũng như phòng ngừa chung trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

[5] Về tiền sự: Không có.

[6] Về tiền án, nhân thân: Bị cáo có nhận thân xấu và có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” cụ thể: Ngày 02/4/2021, bị Tòa án nhân dân T, tỉnh Đồng Nai xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 45/2021/HS-ST nhưng chưa được xóa án tích.

Ngày 12/01/2022, bị Tòa án nhân dân T, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm 08 tám tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 02/2022/HS-ST nhưng chưa được xóa án tích.

[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[8] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[9] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải tiếp tục cách ly bị cáo Nguyễn Văn H ra khỏi xã hội một thời gian, để bị cáo sửa chữa những sai lầm trở thành công dân có ích cho xã hội.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại bà Nguyễn Thị L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên trách nhiệm dân sự không đặt ra đối với bị cáo.

[11] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) điện thoại Nokia màu đen là công cụ dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Đối với 01 (một) sọt sắt là công cụ dùng vào việc phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 64kg sầu riêng thái gồm 52kg loại I, 12kg loại II là của bà Nguyễn Thị L làm chủ sở hữu. Công an huyện T, tỉnh Đồng Nai đã trả lại cho chủ sở hữu là có căn cứ.

Đối với xe mô tô biển số 60V6 – A1 Công an huyện T, tỉnh Đồng Nai đã tạm giữ và trả lại cho chủ sở hữu ông Nguyễn Hoàng A là có căn cứ [12] Về các vấn đề khác: Qúa trình điều tra bị cáo Nguyễn Văn H khai Vầy Say C - sinh năm 1996 và Nguyễn Ngọc Tr - sinh năm 1996, cùng trú tại: ấp 2, xã Tà Lài, huyện T, tỉnh Đồng Nai là người trộm cắp tài sản của bà Nguyễn Thị L và gọi bị cáo đến để chở sầu riêng đi tiêu thụ. Công an huyện T, tỉnh Đồng Nai tiến hành minh làm rõ nhưng Tr không thừa nhận hành vi phạm tội của mình còn Vầy Say C đã bỏ đi khỏi địa phương chưa làm việc được. Ngoài lời khai của bị cáo H thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh hành vi phạm tội của Vầy Say C và Nguyễn Ngọc Tr nên Công an huyện T đã ra Quyết định tách vụ án hình sự số 02/QĐ-CQĐT, ngày 23/10/2023 để tiếp tục điều tra hành vi trộm cắp tài sản sau là có căn cứ.

[13] Quan điểm về việc giải quyết toàn bộ vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Nai phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[14] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[15] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm đ khoản 2 Điều 323; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

- Căn cứ vào Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự.

- Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H (G Nh) phạm tội “Tiêu thu tài sản do người khác phạm tội mà có”.

2. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H (G Nh) 03 (ba) năm 08 (tám) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 25/6/2023).

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại Nokia màu đen. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) sọt sắt.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 27/11/2023 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện T và Chi cục thi hành án dân sự huyện T).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H (G Nh) phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 27/12/2023).

Đối với người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 155/2023/HS-ST về tội tiêu thu tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:155/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;