Bản án 155/2021/HS-ST ngày 29/04/2021 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 155/2021/HS-ST NGÀY 29/04/2021 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Trong ngày 29 tháng 4 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 157/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 142/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thanh B, sinh năm 1985 tại Thái Nguyên; Tên gọi khác: Không; Nơi ĐKHKTT: Tổ 3, phường Phan Đình Phùng, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Sa L, sinh năm 1957; Con bà: Chu Thị Hồng T, sinh năm 1963; Vợ, con: Chưa có.

- Tiền án: Bản án số 534/2018/HSST ngày 27/12/2018, Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 18 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Tiền sự: Ngày 10/11/2020, UBND xã Cổ Lũng, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi tàng trữ, cất giấu trong người, đồ vật các loại công cụ, phương tiện khác nhằm mục đích cố ý gây thương tích cho người khác. Chấp hành xong ngày 11/11/2020.

- Nhân thân:

+ Bản án số 153/HSST ngày 30/8/2002, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xử phạt 18 tháng tù giam về tội “Cướp giật tài sản”.

+ Bản án số 194/HSST ngày 18/12/2002, Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp với bản án số 153/HSST ngày 30/8/2002, xử phạt 27 tháng tù giam. Chấp hành xong án phí ngày 10/3/2003.

+ Ngày 01/3/2005, Công an phường Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng) về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

+ Bản án số 279/2005/HSST ngày 23/11/2005, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xử phạt 05 năm tù giam về tội “Lưu hành tiền giả”.

+ Bản án số 103/2007/HSST ngày 22/8/2007, Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 06 tháng tù giam về tội “Trốn khỏi nơi giam”. Ra trại ngày 10/12/2010.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/01/2021 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (có mặt tại phiên tòa).

Người chứng kiến: Ông Vũ Hữu C, sinh năm 1956; ĐKHKTT: Tổ 18, phường Quang Trung, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 00 ngày 25/01/2021, Nguyễn Thanh B bị phát hiện đang cầm trên tay phải 01 túi vải màu xanh có 02 vật hình hộp chữ nhật có kích thước khoảng 15cm x 15cm x 15cm, bên ngoài dán giấy màu vàng, đỏ ghi nhiều chữ nước ngoài và 01 vật hình hộp chữ nhật có kích thước khoảng 15cm x 15cm x 15cm, bên ngoài dán giấy màu xanh, vàng ghi nhiều chữ nước ngoài B khai là pháo nổ; 01 lọ thủy tinh màu trắng trên nắp có gắn ống nhựa và 01 ống thủy tinh có 01 đầu hình tròn nghi là dụng cụ để sử dụng ma túy. Và 01 túi vải màu đỏ B đeo trên người có 02 vật hình hộp chữ nhật có kích thước khoảng 15cm x 15cm x 15cm, bên ngoài dán giấy màu đỏ, vàng ghi nhiều chữ nước ngoài. Tại túi quần nhỏ phía trước bên phải B đang mặc có 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng. Tại túi áo khoác phía trước bên trái B đang mặc có 05 ống hút bằng nhựa. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với B và thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thanh B tại tổ 3, phường Phan Đình Phùng, thành phố Thái Nguyên nhưng không phát hiện, thu giữ đồ vật tài liệu gì.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành cân xác định khối lượngcủa 05 vật hình hộp chữ nhật có kích thước (14,5 x 14,5 x 15)cm thu giữ của B có tổng khối lượng là 7,2kg (bảy phảy hai kilogam), được niêm phong vào 01 thùng cacton ký hiệu B1 gửi giám định; cân xác định khối lượng số chất tinh thể màu trắngthu giữ của B có khối lượng là 0,081gam (không phảy không tám một gam), cho vào bì niêm phong ký hiệu B2 gửi giám định.

Tại Kết luận giám định số 376/KL-KTHS ngày 02/02/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: 05 vật hình khối hộp có kích thước (14,5x14,5x15)cm, bên ngoài được bọc giấy nhiều màu sắc, có in hoa văn và chữ nước ngoài, bên trong chứa 36 ống hình trụ, kích thước dài 15cm, đường kính 2,4cm được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật, ký hiệu B1 là pháo nổ (pháo hoa nổ). Tổng khối lượng của 05 hộp pháo trong niêm phong ký hiệu B1 là 7,2kg (bảy phảy hai kilogam).

Tại Kết luận giám định số 380/KL-KTHS ngày 03/02/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu B2 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,081 gam (không phảy không tám một gam).

Vật chứng của vụ án gồm:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đỏ đen, tình trạng đã hỏng, không sử dụng được. Imei 1: 3596440092426628; Imei 2: 359644092426636. Bên trong có lắp 02 sim có số seri lần lượt là: 8984048000322832538; 89840810008722554900; 01 thẻ nhớ Micro SD có mã ký hiệu D33466-16GB vào phong bì thư ký hiệu là T1 theo quy định;

- 01 (một) túi vải màu đỏ, cũ qua sử dụng;

- 01 (một) túi vải màu xanh, cũ qua sử dụng;

- 05 (năm) ống hút bằng nhựa;

- 01 (một) lọ thủy tinh có gắn ống nhựa và ống thủy tinh có một đầu hình tròn;

- 01 (một) phong bì niêm phong, ký hiệu là B2 (đã sử dụng hết mẫu trong quá trình giám định, hoàn lại vỏ mẫu).

- 02 hộp pháo nổ, kích thước (14,5x14,5x15)cm được niêm phong theo quy định của pháp luật, ký hiệu B1.

Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 163/CT-VKSTPTN ngày 05/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Nguyễn Thanh B về tội “Vận chuyển hàng cấm” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Nguyễn Thanh B khai nhận: Khoảng 02 giờ 00 phút ngày 25/01/2021, một người đàn ông tên Tuấn “Ảm” (không rõ lai lịch, địa chỉ) thuê xe taxi (không rõ thông tin xe taxi cũng như tài xế điều khiển xe) rồi rủ B đi từ khu vực đường Minh Cầu, thành phố Thái Nguyên xuống khu vực quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. B đồng ý. Khi đến nơi, Tuấn thuê 01 nhà nghỉ (không rõ địa chỉ) để Tuấn và B vào nghỉ. Tuấn “Ảm” đưa cho B 1.000.000đ (một triệu đồng) để B trả tiền thuê xe taxi số tiền là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), còn lại 700.000 đồng (bảy trăm nghìn đồng) B để trên bàn trong phòng nghỉ cho Tuấn. Sau đó Tuấn hẹn gặp 02 người đàn ông gọi tên là Đen và Sơn và 01 người phụ nữ tên là Chít (đều không rõ lai lịch, địa chỉ) mang pháo nổ đến giao cho Tuấn. B nhìn thấy Đen, Sơn và Chít mang đến 02 túi vải màu xanh và màu đỏ bên trong có pháo nổ để bán cho Tuấn. Người tên Đen đã cầm số tiền 700.000 đồng B để trên bàn trước đó. Sau khi mua pháo nổ xong, Tuấn “Ảm” cùng B đi xe ô tô khách về thành phố Thái Nguyên và Tuấn “Ảm” có nhờ B cầm số pháo nổ trên và được Tuấn “Ảm” cho 01 gói ma túy về để sử dụng. Khi B vừa xuống xe ô tô khách tại khu vực tổ 18, phường Quang Trung, thành phố Thái Nguyên thì bị tổ công tác Đội Cảnh sát kinh tế Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang. Việc B vận chuyển số pháo nổ trên không nhằm mục đích bán. B không biết mục đích của Tuấn “Ảm” khi mua số pháo nổ trên.

Trong phần tranh luận: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên luận tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191;

điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự tuyên bố Nguyễn Thanh B phạm tội Vận chuyển hàng cấm, xử phạt bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; tịch thu tiêu hủy vật chứng là pháo nổ; tạm giữ điện thoại, sim, thẻ nhớ của bị cáo để đảm bảo thi hành án và buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo không có ý kiến tranh luận, nhất trí với các đánh giá tại Bản luận tội của Viện kiểm sát.

Trong lời nói sau cùng bị cáo có thái độ thành khẩn, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức hình phạt thấp nhất.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét khách quan toàn bộ các chứng cứ, ý kiến đề nghị của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các thủ tục, trình tự tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên; Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Tại phiên tòa vắng mặt người chứng kiến, tuy nhiên không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án do đó Hội đồng xét xử căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vắng mặt người chứng kiến.

[2] Qua đánh giá các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xem xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xác định:

Hồi 15 giờ 00 phút ngày 25/01/2021, tại khu vực tổ 18, phường Quang Trung, thành phố Thái Nguyên, Nguyễn Thanh B có hành vi vận chuyển 7,2 kg pháo nổ thì bị tổ công tác của Đội Cảnh sát kinh tế Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Thanh B đã cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật hình sự.

Điều 249 của Bộ luật hinh sự quy định. “1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây .......thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a....., b......

c, Pháo nổ từ 06 kilogam đến dười 40 kilogam”.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố Nguyễn Thanh B về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ.

[3] Xét tính chất hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý chất cháy chất nổ của Nhà nước. Bị cáo tự mình thực hiện hành vi phạm tội, không có đồng phạm khác.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

[5] Xét nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo tuổi còn trẻ nhưng không chịu học tập, lao động mà ham chơi bời đua đòi bạn bè dẫn đến nghiện ma túy khi còn rất trẻ. Xem xét quá trình phấn đấu cho thấy, bị cáo đã rất nhiều lần vi phạm pháp luật, bị xử phạt vi phạm hành chính, bị xét xử nhiều lần. Bị cáo vừa chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/02/2020. Nay bị cáo lại tiếp tục có hành vi phạm tội với lỗi cố ý, cho thấy thái độ coi thường pháp luật của bị cáo, gây bức xức cho xã hội.

Những yếu tố trên Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

[6] Về hình phạt: Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử Xét thấy mức hình phạt từ 12 đến 18 tháng tù đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đề xuất áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Đối với hành vi Vận chuyển hàng cấm của bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng. Tuy nhiên, bị cáo là đối tượng nghiện, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, tại địa phương không có tài sản gì. Do đó Đại diện viện kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sụng là phạt tiền đối với bị cáo là có cơ sở.

[7] Về vật chứng:

01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đỏ đen, tình trạng đã hỏng, không sử dụng được. Imei 1: 3596440092426628; Imei 2: 359644092426636. Bên trong có lắp 02 sim có số seri lần lượt là: 8984048000322832538; 89840810008722554900; 01 thẻ nhớ Micro SD có mã ký hiệu D33466-16GB vào phong bì thư ký hiệu là T1 theo quy định là tài sản của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội. Do đó cần trả lại cho bị cáo, tuy nhiên Hội đồng xét xử xét thấy cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với các vật chứng khác cần tịch thu tiêu hủy gồm: 01 (một) túi vải màu đỏ, cũ qua sử dụng; 01 (một) túi vải màu xanh, cũ qua sử dụng; 05 (năm) ống hút bằng nhựa; 01 (một) lọ thủy tinh có gắn ống nhựa và ống thủy tinh có một đầu hình tròn; 01 (một) phong bì niêm phong, ký hiệu là B2 (đã sử dụng hết mẫu trong quá trình giám định, hoàn lại vỏ mẫu) và 02 hộp pháo nổ, kích thước (14,5x14,5x15)cm được niêm phong theo quy định của pháp luật, ký hiệu B1.

[8] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Về nguồn gốc số pháo nổ bị thu giữ, Nguyễn Thanh B khai do 02 người đàn ông tên Đen, Sơn và 01 người phụ nữ tên Chít bán cho người đàn ông tên Tuấn “Ảm” (đều không rõ lai lịch, địa chỉ của những người này). Sau đó Tuấn giao cho B để vận chuyển từ Hà Nội về Thái Nguyên. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể của Đen, Sơn, Chít và Tuấn do đó không có cơ sở điều tra, làm rõ.

Trong vụ án này, Nguyễn Thanh B còn có hành vi tàng trữ trái phép 0,081 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích sử dụng cho bản thân. Quá trình xác minh xác định, B chưa bị xử phạt vi phạm hành chính và chưa bị kết án về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 Bộ luật hình sự. Do đó, hành vi tàng trữ trái phép 0,081 gam ma túy, loại Methamphetamine của B không đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điều 249 Bộ luật hình sự. Vì vậy, ngày 04/02/2021, Công an thành phố Thái Nguyên đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với B bằng hình thức phạt tiền, mức xử phạt: 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) là đúng quy định của pháp luật.

Do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét các nội dung trên trong vụ án này.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 191 BLHS; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của BLHS; Điều 326, Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh B phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

2. Xử phạt: Nguyễn Thanh B 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 25/01/2021.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Tiếp tục tạm giam Bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của BLHS; Điều 106 của BLTTHS.

- Tạm giữ để đảm bảo thi hành án: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đỏ đen, tình trạng đã hỏng, không sử dụng được. Imei 1: 3596440092426628; Imei 2: 359644092426636. Bên trong có lắp 02 sim có số seri lần lượt là: 8984048000322832538; 89840810008722554900; 01 thẻ nhớ Micro SD có mã ký hiệu D33466-16GB vào phong bì thư ký hiệu là T1 theo quy định;

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) túi vải màu đỏ, cũ qua sử dụng;

- 01 (một) túi vải màu xanh, cũ qua sử dụng;

- 05 (năm) ống hút bằng nhựa;

- 01 (một) lọ thủy tinh có gắn ống nhựa và ống thủy tinh có một đầu hình tròn;

- 01 (một) phong bì niêm phong, ký hiệu là B2 (đã sử dụng hết mẫu trong quá trình giám định, hoàn lại vỏ mẫu).

- 02 hộp pháo nổ, kích thước (14,5x14,5x15)cm được niêm phong theo quy định của pháp luật, ký hiệu B1.

(Đặc điểm các vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 288 ngày 30/3/2021 giữa Chi cục Thi hành dân sự thành phố Thái Nguyên và Công an TP Thái Nguyên).

3.Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/QH ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Thanh B phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

Án xét xử sơ thẩm công khai. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 155/2021/HS-ST ngày 29/04/2021 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:155/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;