TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 155/2020/HSST NGÀY 03/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 03 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định. Toà án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 132/2020/TLST-HS ngày 24-4-2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2020/QĐ-HSST ngày 18-5-2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Văn T, sinh năm 1983 tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm H, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn C và Ngô Thị B; chưa có vợ, con; tiền án: Ngày 29-11-2013 Tòa án nhân dân huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 09-9-2016 Tòa án nhân dân huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18 tháng 02 năm 2020 sau đó chuyển tạm giam đến nay Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên toà.
Người làm chứng: Ông Bùi Văn Tiến và ông Đỗ Văn Tươm (vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 07 giờ 15 phút ngày 18-02-2020 Tổ công tác Công an phường C, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực thôn Vị Lương, xã Nam Phong, thành phố N phát hiện Trần Văn T điều khiển xe máy biển kiểm soát 18B2-50440 có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, T thả từ tay trái xuống đất 03 gói nhỏ được gói bằng giấy bạc màu trắng. Tổ công tác kịp thời phát hiện, thu giữ, mở kiểm tra bên trong đều chứa chất bột dạng cục màu trắng (T khai nhận là 03 gói Heroine). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng sau đó đưa T cùng những người làm chứng về trụ sở Công an phường C, thành phố N lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn tạm giữ của T 01 căn cước công dân mang tên Trần Văn T và chiếc xe máy trên.
Bản kết luận giám định số: 189/GĐKTHS ngày 21-02-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định đã kết luận: Mẫu vật thu giữ của Trần Văn T được niêm phong gửi giám định đều là ma túy, loại ma túy: Heroine, có tổng khối lượng: 0,243 gam (không phẩy hai bốn ba gam).
Tại Cơ quan điều tra: Trần Văn T đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mục đích để sử dụng và khai nhận nguồn gốc gói ma túy bị thu giữ trên như sau: Khoảng 06 giờ 45 phút ngày 18-02-2020, T mượn xe máy biển kiểm soát 18B2-50440 của bố đẻ là Trần Văn C, sinh năm 1961, trú tại: Xóm H, xã N, huyện N đi từ nhà đến khu vực đền C, thôn V, xã N, thành phố N để mua ma túy về sử dụng. Khi đến nơi, T gặp và mua của 01 người phụ nữ (không rõ lai lịch) 03 gói ma túy với giá 300.000 đồng. T cầm 03 gói ma túy trong tay trái và đi xe về đến gần đầu ngõ rẽ ra đường L, thôn V, xã N, thành phố N thì bị phát hiện bắt giữ.
Bản Cáo trạng số 139/CT-VKSTPNĐ ngày 24-4-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Trần Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà: Bị cáo Trần Văn T xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng ép cung, bức cung hay nhục hình. Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản Cáo trạng đã nêu là đúng và khai nhận biết rõ hành vi cất giữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện ma túy nên đã tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng cho bản thân. Bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới và ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Văn T theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo Trần Văn T từ 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù đến 06 (sáu) năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ số ma tuý đã thu giữ của bị cáo. Trả lại bị cáo 01 căn cước công dân mang tên Trần Văn T.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Văn T có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có sự mâu thuẫn và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ vật chứng; bản kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; lời khai của những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ nên đã có đủ cơ sở kết luận khoảng 07 giờ 15 phút ngày 18-02-2020, tại khu vực đầu ngõ rẽ ra đường L, thôn V, xã N, thành phố N, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,243 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn thành phố N, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo đã có 02 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích nên phạm tội lần này thuộc T hợp tái phạm nguy hiểm. Việc truy tố và đưa ra xét xử bị cáo theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.
[3] Các tình tiết Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo:
[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên đối với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng...”. Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: 01 gói ma túy trong phong bì niêm phong số 189/GĐKTHS là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 căn cước công dân mang tên Trần Văn T là tài sản riêng của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.
[7] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Trần Văn T Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đang tiến hành xác minh nên tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.
Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 18B2-50440 đã tạm giữ của bị cáo, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho ông Trần Văn Chiến, sinh năm 1961, trú tại: Xóm H, xã N, huyện N là phù hợp với quy định của pháp luật.
[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
- Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
- Xử phạt bị cáo Trần Văn T 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù của bị cáo được tính từ ngày 18 tháng 02 năm 2020.
2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy trong phong bì niêm phong số 189/GĐKTHS. Trả lại bị cáo 01 căn cước công dân mang tên Trần Văn T (vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 20 tháng 4 năm 2020 giữa Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N).
3. Án phí: Bị cáo Trần Văn T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Văn T được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trong T hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./
Bản án 155/2020/HSST ngày 03/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 155/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/06/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về