Bản án 155/2019/HS-ST ngày 24/09/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN N, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 155/2019/HS-ST NGÀY 24/09/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 131/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 574/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2019, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phạm Trung C, Giới tính: Nam;

Tên gọi khác: không;

Sinh năm 1997; Nơi sinh: An Giang;

i cư trú: ấp V, xã V, huyện T, tỉnh An Giang;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12;

Họ và tên cha: Phạm Văn M, sinh năm: 1971 (Sống);

Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị T, sinh năm: 1978 (Sống); Anh chị em ruột: Có 01 người em sinh năm2001;

Tin án, tiền sự: Chưa;

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 07/12/2018, hiện đang bị tam giam tại nhà tạm giữ quận N.

2. Họ và tên: Trần Trung H, Giới tinh: Nam;

Tên gọi khác: không;

Sinh năm 1998; Nơi sinh: Lâm Đồng;

Nơi cư trú: thôn 5, xã M, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Công giáo;

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Họ và tên cha: Trần Hồng L, sinh năm: 1978 (Sống);

Họ và tên mẹ: Lê Thị Trúc L1, sinh năm: 1980 (Sống); Anh chị em ruột: không;

Tin án, tiền sự: Chưa;

Bị cáo Trần Trung H bị bắt tạm giam ngày 04/12/2018, hiện đang bị tam giam tại nhà tạm giữ Công an quận N.

Bị hại: Hồ Hữu T, sinh năm 1974

Địa chỉ: 132/42/46/5 đường H, phường T, quận N, thành phố Cần Thơ.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Phạm Văn M sinh năm 1971

Địa chỉ: ấp V, xã V, huyện T, tỉnh An Giang

2. Bà Lê Thị Trúc L sinh năm 1980

Địa chỉ: ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai

Người bào chữa cho bị cáo Phan Trung CLuật sư Huỳnh Chí T – Công ty luật hợp danh T, Đoàn Luật sư thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 13/10/2018, anh Hồ Hữu T thông qua mạng xã hội Fecabook kết bạn với người phụ nữ có tài khoản tên “Cheikh Gaye”, người này nói muốn chuyển cho anh 02 triệu USD để làm từ thiện. Đến ngày 16/10/2018, người phụ nữ trên nói đã gửi 01 thùng quà cho anh, ngày hôm sau anh nhận được điện thoại từ số 0354226356 gọi đến yêu cầu anh nộp 1.000 USD vào tài khoản số 050094660928 chủ tài khoản tên Trần Trung H mở tại Sacombank tỉnh Đồng Nai để đóng phí nhận quà, anh T đến ngân hàng Sacombank số 95, 97, 99 đường V, phường T, quận N chuyển 23.360.000 đồng vào tài khoản trên. Sau đó, anh T tiếp tục nhận được điện thoại từ số máy trên yêu cầu anh chuyển thêm 4.500 USD để nộp phạt mới nhận được quà, nghi ngờ bị lừa đảo nên anh T đến Công an trình báo sự việc (bút lục: 01).

Đến ngày 23/11/2018, đối tượng Trần Trung H mang giấy chứng minh đến Ngân hàng Sacombank thành phố Biên Hòa, Đồng Nai để làm thủ tục rút tiền trong tài khoản số 050094660928 thì bị Công an mời về làm việc.

Qua sao kê tài khoản ngân hàng số 050094660928 của Trần Trung H tại Ngân hàng Sacombank chi nhánh Biên Hòa, Đồng Nai, xác định: có 16 người bị hại đã chuyển tiền vào với tổng số tiền là 348.337.000 đồng, trong đó có số tiền 23.360.000 đồng của anh Hồ Hữu T (bút lục: 134).

Ti cơ quan điều tra, Trần Trung H khai nhận: Khoảng tháng 8/2018, H có làm 03 thẻ ATM (loại thẻ Visa) tại các ngân hàng Sacombank, HD bank và Viettinbank chi nhánh Biên Hòa, Đồng Nai đưa cho Phạm Trung C sử dụng, mỗi thẻ C trả cho H số tiền từ 1.500.000 đồng đến 2.100.000 đồng.

Phm Trung C khai nhận: Vào khoảng tháng 8/2018, bị cáo Phạm Trung C được một người đàn ông tên thường gọi là “C1” là người Campuchia mà C quen biết khi còn ở Campuchia (hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch) đề nghị C làm một số tài khoản ngân hàng cho C1 để C1 đưa cho một phụ nữ người Campuchia tên Srey Tot (hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch) lừa đảo người khác chuyển tiền vào các tài khoản ngân hàng này, C1 sẽ trả cho C số tiền 2.000.000 đồng và mỗi người làm tài khoản số tiền 2.500.000 đồng, thì C đồng ý. Kết quả từ tháng 8/2018 đến ngày bị phát hiện, C đã nhờ Trần Trung H, Bùi Tuấn A, Nguyễn Thị T, Vũ Thị Thúy H, Nguyễn Văn S, H, G, S, C, T (chưa rõ lai lịch) làm khoảng 15 tài khoản ngân hàng (loại thẻ Visa) của các ngân hàng như: ACB, Viettinbank, Vietcombank, OCB, HD Bank, PV Bank, Sacombank,… Tất cả các tài khoản trên đều đăng ký tin nhắn báo đến các số điện thoại do C1 cung cấp, sau đó C giao các tài khoản cho C1 để C1 đưa cho Srey Tot.

Trong các tài khoản đã giao cho C1 để C1 đưa cho Srey Tot, C đã cùng các chủ thẻ rút tiền từ các tài khoản này đưa cho C1 cụ thể như sau:

Ln 1: C đã cùng G (chưa rõ lai lịch) đến ngân hàng PVBank Chi nhánh Biên Hòa Đồng Nai rút số tiền 23.000.000 đồng đưa cho C1, C1 chia cho C số tiền 5.000.000 đồng và chia cho Giang 3.000.000 đồng.

Ln 2: Vào ngày 11/9/2018, C yêu cầu Phan Văn S đến ngân hàng Vietinbank chi nhánh Biên Hòa Đồng Nai rút số tiền 100.000.000 đồng từ tài khoản số 109868709409 đứng tên Phan Văn S đưa cho C1, C1 chia cho C số tiền 30.000.000 đồng và chia cho S 10.000.000 đồng.

Ln 3: Vào ngày 13/11/2018, C yêu cầu Trần Trung H đến ngân hàng Vietinbank chi nhánh Biên Hòa Đồng Nai rút số tiền 161.000.000 đồng từ tài khoản số 102866772072 của Trần Trung H đưa cho C1, C1 chia cho C số tiền 30.000.000 đồng và chia cho H 20.000.000 đồng.

Ln 4: C yêu cầu Phan Văn S đến ngân hàng OCB chi nhánh Biên Hòa Đồng Nai rút số tiền 20.000.000 đồng từ tài khoản đứng tên Phan Văn S đưa cho C1, C1 chia cho C số tiền 4.000.000 đồng và chia cho S 2.000.000 đồng.

Ln 5: C yêu cầu H và S đi cùng chủ thẻ (không nhớ tên) đến ngân hàng rút số tiền 60.000.000 đồng rồi đưa lại cho C1, C1 chia cho C số tiền 10.000.000 đồng, chia cho H 5.000.000 đồng và chia cho S 5.000.000 đồng.

Ln 6: C yêu cầu H và S đi cùng chủ thẻ (không nhớ tên) đến ngân hàng rút số tiền 80.000.000 đồng rồi đưa lại cho C1, C1 chia cho C số tiền 10.000.000 đồng, chia cho H 5.000.000 đồng và chia cho S 5.000.000 đồng.

Ln 7: C yêu cầu H và S đi cùng chủ thẻ (không nhớ tên) đến ngân hàng rút số tiền 140.000.000 đồng rồi đưa lại cho C1, C1 chia cho C số tiền 20.000.000 đồng, chia cho H 5.000.000 đồng và chia cho S 5.000.000 đồng.

Qua điều tra xác định, C đã được C1 yêu cầu rút 07 lần tiền trong các tài khoản, khi rút tiền C biết rõ đây là số tiền do C1 và Srey Tot dùng thủ đoạn để yêu cầu các bị hại chuyển tiền vào sau đó rút ra để chiếm đoạt. Tổng số tiền C được C1 chia từ việc làm tài khoản ngân hàng và đi rút tiền có trong tài khoản của các chủ thẻ cho C1 là khoảng 139.000.000 đồng. Đối với bị cáo Trần Trung H đã trực tiếp làm 03 tài khoản ngân hàng theo yêu cầu của C và đi rút tổng cộng 04 lần tiền từ các tài khoản đưa lại cho C để đưa cho C1, H biết rõ việc làm thẻ ngân hàng đưa lại cho C là để cho các đối tượng dùng thủ đoạn yêu cầu những người bị hại chuyển tiền vào tài khoản rồi rút ra để chiếm đoạt. Tổng số tiền H được hưởng lợi từ việc mở tài khoản ngân hàng và rút tiền từ tài khoản ngân hàng cho C là khoảng 41.000.000 đồng. Riêng Phan Văn S được hưởng lợi từ việc mở tài khoản ngân hàng và rút tiền từ tài khoản ngân hàng cho C là khoảng 32.000.000 đồng (bút lục: 105-133, 164-188).

Qua sao kê các tài khoản ngân hàng của Trần Trung H và Phan Văn S đã mở theo yêu cầu của C, có 72 bị hại đã chuyển tiền vào, trong đó có anh Hồ Hữu T. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận N đã có Công văn yêu cầu các Ngân hàng cung cấp thông tin chi tiết giao dịch chuyển tiền, tuy nhiên trong các Công văn trả lời của các Ngân hàng chỉ có sao kê giao dịch tài khoản, không có thông tin chi tiết người chuyển tiền và thông tin rút tiền. Do đó, Cơ quan điều tra chưa có cơ sở để liên hệ làm việc. Ngày 08/01/2019, Cơ quan điều tra đã Thông báo tìm bị hại nhưng đến nay chưa có người đến liên hệ làm việc (bút lục: 434, 445- 641).

Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận N đã có Công văn chuyển cho cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an các tỉnh, thành phố: Lào Cai, Đồng Nai, Tiền Giang, Đăk Lăk, Hà Nội, Cà Mau, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Đồng Tháp, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh cùng các tài liệu có liên quan đến hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nơi xảy ra tội phạm để thụ lý và giải quyết theo thẩm quyền.

Phan Văn S qua xác minh không có mặt tại địa phương. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận N cũng đã ra Thông báo truy tìm đối tượng, tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau (bút lục: 435).

Đối với đối tượng tên C1 và Srey Tot hiện, Cơ quan điều tra – Công an quận N tiếp tục phối hợp với Cơ quan có thẩm tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

Đối với Bùi Tuấn A, Nguyễn Thị T, Vũ Thị Thúy H có mở các tài khoản Ngân hàng cho C, nhưng không biết C dùng vào mục đích lừa đảo nên chưa đủ căn cứ để xử lý.

Đối với H, G, S, C, T hiện nay chưa xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ.

Ngày 28/5/2019, ông Phạm Văn M là cha của bị cáo Phạm Trung C đã nộp số tiền 11.680.000 đồng để khắc phục hậu quả. Ngày 01/6/2019, bà Lê Thị Trúc L là mẹ của bị cáo Trần Trung H cũng nộp số tiền 11.680.000 đồng để khắc phục một phần hậu quả (bút lục: 53, 54).

Đối với vật chứng thu giữ (bút lục: 40, 46-48, 51, 52), Cơ quan điều tra đã làm rõ và xử lý vật chứng trả lại:

- 01 điện thoại di động Motorola XT 1033 màu đen; 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter 150 màu đỏ đen, biển số 67N1-173.26 là tài sản cá nhân của Bùi Tuấn A không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại, Bùi Tuấn A đã nhận lại xong;

- 01 sổ hộ khẩu chủ hộ tên Nguyễn Hữu T; 01 màn hình Lenovo L197wA; 01 CPU màu đen hiệu Sama đã trả lại cho chị Nguyễn Thị T, nhận lại xong (bút lục: 436- 440).

Ti bản cáo trạng số 135/CT - VKSNK ngày 29 tháng 7 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận N, thành phố Cần Thơ truy tố các bị cáo Phạm Trung C, Trần Trung H về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi vi phạm của các bị cáo đúng như nội dung cáo trạng truy tố đối với các bị cáo.

Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Phạm Trung C: bị cáo Phạm Trung C thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải việc đã làm, gia đình bị cáo đã khắc phục một phần hậu quả nên đề nghị cho bị cáo được hưởng hình phạt nhẹ nhất.

Bị hại trình bày: yêu cầu nhận lại số tiền 23.360.000 đồng, đối với hình phạt đề nghị xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Phạm Văn M trình bày: ông M là cha của bị cáo Phạm Trung C, ông đã nộp thay cho bị cáo C số tiền 11.680.000 đồng để khắc phục hậu quả cho C. Nay ông M không yêu cầu gì đối với C.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát: Thông qua mạng xã hội Facebook, ngày 18/10/2018 Phạm Trung C và Trần Trung H đã có hành vi giúp sức cho đồng bọn thực hiện hành vi gian dối, tạo lòng tin để lừa bị hại Hồ Hữu T chuyển số tiền 23.360.000 đồng tiền vào tài khoản của Trần Trung H, để chiếm đoạt chia nhau sử dụng. Hành vi mà các bị cáo thực hiện đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Trung C mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, xử phạt bị cáo Trần Trung H mức án từ 1 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng dân sự trả lại cho H 01 CMND, tịch thu sung quỹ nhà nước 02 điện thoại di động thu giữ của các bị cáo. Các vật chứng còn lại tịch thu tiêu hủy.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Vào ngày 13/10/2018, anh Hồ Hữu T thông qua mạng xã hội Fecabook kết bạn với người phụ nữ có tài khoản tên “Cheikh Gaye”, người này nói muốn chuyển cho anh T 02 triệu USD để làm từ thiện. Đến ngày 16/10/2018, người phụ nữ trên nói đã gửi 01 thùng quà cho anh, ngày hôm sau anh nhận được điện thoại từ số 0354226356 gọi đến yêu cầu anh T nộp 1.000 USD vào tài khoản số 050094660928 chủ tài khoản tên Trần Trung H mở tại Sacombank tỉnh Đồng Nai để đóng phí nhận quà, anh T đến ngân hàng Sacombank số 95, 97, 99 đường Võ Văn Tần, phường Tân An, quận N chuyển 23.360.000 đồng vào tài khoản trên. Sau đó, anh T tiếp tục nhận được điện thoại từ số máy trên yêu cầu anh chuyển thêm 4.500 USD để nộp phạt mới nhận được quà, nghi ngờ bị lừa đảo nên anh T đến Công an trình báo sự việc.

Đến ngày 23/11/2018, đối tượng Trần Trung H mang giấy chứng minh đến Ngân hàng Sacombank thành phố Biên Hòa, Đồng Nai để làm thủ tục rút tiền trong tài khoản số 050094660928 thì bị Công an mời về làm việc.

Qua sao kê tài khoản ngân hàng số 050094660928 của Trần Trung H tại Ngân hàng Sacombank chi nhánh Biên Hòa, Đồng Nai, xác định: có 16 người bị hại đã chuyển tiền vào với tổng số tiền là 348.337.000 đồng, trong đó có số tiền 23.360.000 đồng của anh Hồ Hữu T.

Ti cơ quan điều tra, Trần Trung H khai nhận: Khoảng tháng 8/2018, H có làm 03 thẻ ATM (loại thẻ Visa) tại các ngân hàng Sacombank, HD bank và Viettinbank chi nhánh Biên Hòa, Đồng Nai đưa cho Phạm Trung C sử dụng, mỗi thẻ C trả cho H số tiền từ 1.500.000 đồng đến 2.100.000 đồng.

Phm Trung C khai nhận: Vào khoảng tháng 8/2018, bị cáo Phạm Trung C được một người đàn ông tên thường gọi là “C1” là người Campuchia mà C quen biết khi còn ở Campuchia (hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch) đề nghị C làm một số tài khoản ngân hàng cho C1 để C1 đưa cho một phụ nữ người Campuchia tên Srey Tot (hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch) lừa đảo người khác chuyển tiền vào các tài khoản ngân hàng này, C1 sẽ trả cho C số tiền 2.000.000 đồng và mỗi người làm tài khoản số tiền 2.500.000 đồng, thì C đồng ý. Kết quả từ tháng 8/2018 đến ngày bị phát hiện, C đã nhờ Trần Trung H, Bùi Tuấn A, Nguyễn Thị T, Vũ Thị Thúy H, Nguyễn Văn S, H, G, S, C, T (chưa rõ lai lịch) làm khoảng 15 tài khoản ngân hàng (loại thẻ Visa) của các ngân hàng như: ACB, Viettinbank, Vietcombank, OCB, HD Bank, PV Bank, Sacombank,… Tất cả các tài khoản trên đều đăng ký tin nhắn báo đến các số điện thoại do C1 cung cấp, sau đó C giao các tài khoản cho C1 để C1 đưa cho Srey Tot.

Qua điều tra xác định, C đã được C1 yêu cầu rút 07 lần tiền trong các tài khoản, khi rút tiền C biết rõ đây là số tiền do C1 và Srey Tot dùng thủ đoạn để yêu cầu các bị hại chuyển tiền vào sau đó rút ra để chiếm đoạt. Tổng số tiền C được C1 chia từ việc làm tài khoản ngân hàng và đi rút tiền có trong tài khoản của các chủ thẻ cho C1 là khoảng 139.000.000 đồng. Đối với bị cáo Trần Trung H đã trực tiếp làm 03 tài khoản ngân hàng theo yêu cầu của C và đi rút tổng cộng 04 lần tiền từ các tài khoản đưa lại cho C để đưa cho C1, H biết rõ việc làm thẻ ngân hàng đưa lại cho C là để cho các đối tượng dùng thủ đoạn yêu cầu những người bị hại chuyển tiền vào tài khoản rồi rút ra để chiếm đoạt. Tổng số tiền H được hưởng lợi từ việc mở tài khoản ngân hàng và rút tiền từ tài khoản ngân hàng cho C là khoảng 41.000.000 đồng. Hành vi các bị cáo thực hiện thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân quận N truy tố các bị cáo về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ.

c bị cáo cùng với những đối tượng tên C1, Srey Tot dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác thể hiện sự xem thường pháp luật, hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của bị hại mà các bị cáo thực hiện đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ nên cần xử lý nghiêm đối với các bị cáo nhằm giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên các bị cáo thành khẩn khai báo, gia đình khắc phục hậu quả, bị hại xin giảm nhẹ cho các bị cáo nên xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo.

c bị cáo là đồng phạm trong vụ án nhưng ở mức độ giản đơn, vai trò mỗi bị cáo khác nhau, mức độ thực hiện hành vi vi phạm khác nhau nên khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo là khác nhau.

Đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ đối với đối tượng tên Phan Văn Sang, C1 và Srey Tot để có hướng xử lý phù hợp.

[3] Về xử lý vật chứng: Thống nhất theo đề nghị của đại diện viện kiểm sát.

[4] Về án phí: các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Trung C, bị cáo Trần Trung H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng: khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 47, Điều 58 Bộ luật hình sự 2015;

Khoản 2 Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: bị cáo Phạm Trung C 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù thời hạn phạt tù được tính từ ngày 07/12/2018.

Xử phạt: bị cáo Trần Trung H 01 (một) năm 03 (tháng) tháng tù thời hạn phạt tù được tính từ ngày 04/12/2018.

Xử lý vật chứng: c vật chứng theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 30 tháng 7 năm 2019 xử lý như sau:

Trả lại 01 giấy chứng minh nhân dân số 251152614 cho bị cáo Trần Trung H.

Tch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động OPPO A57 màu trắng bạc, imei: 863966035765674, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động Iphone 6 (A1586) màu vàng gold,imei: 354408066518173, đã qua sử dụng.

Tt cả các vật chứng còn lại tich thu tiêu hủy.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

c bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 155/2019/HS-ST ngày 24/09/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:155/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;