Bản án 154/2023/DS-PT về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 154/2023/DS-PT NGÀY 22/06/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 196/2022/TLPT-DS ngày 01 tháng 11 năm 2022 về “Tranh chấp hơp đồng mua bán tài sản”; do Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2022/DS-ST ngày 11/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên bị kháng cáo; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2359/2023/QĐ-PT ngày 25 tháng 5 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: bà Phạm Thị Kim T, sinh năm 1969; Địa chỉ: R 40 7091 Tiller Trondheim, Vương quốc Na Uy.

Người đại diện theo ủy quyền: bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1975; Địa chỉ: 40/21 Đường T1, phường Y, thành phố T2, tỉnh Phú Yên. có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp: ông Nguyễn Hương Q, Luật sư Công ty luật TNHH MTV P, Đoàn luật sư tỉnh Phú Yên. có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: ông Cao Thanh P1, sinh năm 1995; Địa chỉ: thôn Đ, xã Hòa An, huyện P2, tỉnh Phú Yên. có mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1975; Địa chỉ: 40/21 Đường T1, phường Y, thành phố T2, tỉnh Phú Yên. vắng mặt.

2. Chị Nguyễn Bích Tr, sinh năm 1999; Địa chỉ: 40/21 Đường T1, phường Y, thành phố T2, tỉnh Phú Yên. vắng mặt.

Người kháng cáo: bị đơn ông Cao Thanh P1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (Luật sư Nguyễn Hương Q) và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (bà Nguyễn Thị D) thống nhất trình bày:

Bà Phạm Thị Kim T đang định cư ở Vương Quốc Na Uy. Bà T có quen biết ông Cao Thanh P1 trên Facebook là người ở Phú Yên có quảng cáo là chuyên bán hàng, đóng đồ gỗ trang trí nội thất theo yêu cầu của khách hàng, do đó vào tháng 8 năm 2020, bà T đã đặt thiết kế nội thất (tủ, bàn, giường, bồn rửa tay...) trên trang Facebook của P1 cho căn nhà được xây dựng tại 40/21 Đường T1, phường Y, thành phố T2, tỉnh Phú Yên để có nơi lưu trú khi bà T về Việt Nam. Giữa bà T và ông P1 đã trao đổi và thống nhất việc mua bán vật liệu, lắp đặt, trang trí nội thất theo yêu cầu của bà T. Bà T đã chuyển tiền về nhờ con gái bà D (Nguyễn Bích Tr) chuyển khoản đặt cọc, đưa tiền mặt cho ông P1 để mua hàng. Ông P1 đã nhận số tiền là 86.100.000đ (Tám mươi sáu triệu một trăm ngàn đồng), cụ thể như sau: Lần 1: Ngày 03.8.2020 giao tiền mặt 5.000.000đ. Lần 2: Ngày 04.8.2020 chuyển khoản số tiền: 45.000.000đ. Lần 3: Ngày 07.01.2021 chuyển khoản số tiền: 10.000.000đ. Lần 4: Ngày 08.01.2021 chuyển khoản số tiền: 5.000.000đ. Lần 5: Ngày15.3.2021 chuyển khoản số tiền: 21.100.000đ Sau khi nhận tiền xong thì ông P1 không thực hiện việc giao hàng, bà T, bà D đã nhiều lần yêu cầu việc giao hàng nhưng ông P1 không thực hiện. Do đó, bà T quyết định chấm dứt hợp đồng mua bán vật liệu, lắp đặt đồ trang trí nội thất, yêu cầu ông P1 trả lại đủ số tiền 86.100.000đ và tiền lãi theo lãi suất 10%/năm từ lúc khởi kiện đến lúc Tòa xử xong (dự tính 12 tháng x 86.1000.000đ x 10%/năm = 8.610.000đ) cho bà T.

2. Tại biên bản ghi lời khai ngày 21/02/2022, ông Cao Thanh P1 trình bày:

Bản thân tôi làm nghề nội thất theo mẫu yêu cầu của người mua và có đăng trên mạng xã hội. Chị T đang định cư ở Na Uy xem trên mạng và có nhu cầu mua trang trí nội thất để trang trí nhà tại T2, sau khi trao đổi, chị T có nhờ người quen chuyển khoản tiền các lần khoản 80 triệu và mấy trăm ngàn, tôi không nhớ cụ thể. Hai bên thỏa thuận chị T mua nội thất gồm 04 bồn nước x 7.500.000đ/cái = 30.000.000đ, mạ đồng vài trăm, còn trên 50.000.000đ là đóng nội thất bằng gỗ trong nhà, đặt hàng tháng 8/2020, đến cuối năm 2020 hoàn thành, đã dùng số tiền này mua đồ gồm gỗ, phụ kiện lắp ráp, bồn nước…nhưng chưa hoàn thành lắp đặt là do nhà chưa xây dựng. Đối với yêu cầu đòi lại số tiền 86.100.000đ của nguyên đơn thì ông P1 không đồng ý lãi, sẽ giao đủ 04 bồn nước 30.0000.000đ, còn 50.000.000đ nội thất sẽ trả lại cho chị T nhưng phải trừ chi phí làm việc, đi lại 800.000đ; số tiền còn lại đồng ý trả 03 tháng một lần gần 20 triệu đồng cho đến khi hết nợ.

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị D, Nguyễn Thị Bích Trinh: thống nhất với trình bày yêu cầu của nguyên đơn.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 21/2022/DS-ST ngày 11/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã quyết định:

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, 37, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 430 của BLDS năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị Kim T. Buộc bị đơn ông Cao Thanh P1 phải trả cho nguyên đơn bà Phạm Thị Kim T số tiền 90.405.000đ (Chín mươi triệu bốn trăm lẻ năm nghìn đồng) (trong đó tiền gốc 86.100.000đ, tiền lãi 4.305.000đ).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị đơn chưa trả khoản tiền trên thì hàng tháng phải chịu lãi, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo và thi hành án theo quy định của pháp luật.

Ngày 17/8//2022, bị đơn ông Cao Thanh P1 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm; yêu cầu sửa bản án, không chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của bà Phạm Thị Kim T.

Tại phiên tòa phúc thẩm: người kháng cáo ông Cao Thanh P1 vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo đề nghị sửa bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Kim T..

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành đúng quy định; về tố tụng, án sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án dân sự đúng trình tự, thủ tục; về nội dung, tại phiên toà hôm nay ông P1 có cung cấp một số chứng cứ mới, do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị đơn; sửa một phần bản án sơ thẩm, chấp nhận một phần đơn khởi kiện của bà T.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của đương sự và của đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: các đương sự được triệu tập hợp lệ, tuy nhiên có nhiều đương sự vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt, theo đề nghị của đương sự có mặt tại phiên tòa là bị đơn và của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử thấy đây là phiên tòa được triệu tập lần thứ tư, các đương sự đều nhận được Giấy triệu tập hợp lệ, việc vắng mặt của các đương sự đều có đơn xin xét xử vắng mặt, nên thống nhất quyết định tiếp tục tiến hành phiên tòa.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét nguyên nhân dẫn đến các bên tranh chấp; Hội đồng xét xử thấy rằng: thông qua mạng xã hội facebook bà T biết ông P1 cung cấp hàng hoá nội thất gia đình, nên vào tháng 08/2020 bà T có đặt mua của ông Cao Thanh P1 một số hàng hoá như tủ, bàn, giường, bồn rửa…để lắp đặt tại nhà của vợ chồng bà Nguyễn Thị D số 40/21 Đường T1, phường Y, thành phố T2, tỉnh Phú Yên. Sau khi thoả thuận xong giá cả và thời gian thanh toán giao nhận hàng, bà T đã 05 lần giao tiền cho ông P1 tổng cộng là 86.100.000đ gồm: lần 1 vào ngày 03/8/2020: 5.000.000đ; lần 2 vào ngày 04/8/2020 chuyển khoản: 45.000.000đ;

lần 3 vào ngày 08/01/2021 chuyển khoản: 5.000.000đ; lần 4 vào ngày 07/01/2021 chuyển khoản: 10.000.000 và lần 5 vào ngày 15/3/2021 chuyển khoản: 21.100.000đ. Đến hẹn giao hàng là cuối năm 2020, nhưng ông P1 không giao số hàng trên cho bà T, vì vậy bà T cho rằng ông P1 đã vi phạm hợp đồng nên yêu cầu ông P1 trả lại tiền đã nhận. Ông Cao Thanh P1 thừa nhận nội dung trên nhưng cho rằng do bà T chưa xây nhà nên ông chưa giao hàng bằng gỗ là tủ, bàn, giường, còn 04 bồn rửa ông đã mua xong kể cả công và chi phí vận chuyển hơn 30.000.000đ. Do vậy ông yêu cầu bà T phải nhận 04 bồn rửa, số tiền còn lại khoản 50.000.000đ, ông đề nghị được thanh toán lại trong thời hạn 09 tháng không tính lãi sau khi trừ khoản chi phí đi lại là 800.000đ.

[2.2] Xét nguyên nhân dẫn đến việc các bên không thực hiện được hợp đồng; Hội đồng xét xử thấy rằng: ông P1 thừa nhận hai bên có thỏa thuận mua bán hàng trang trí nội thất, bà T đã chuyển cho ông P1 86.100.000đ (cụ thể ngày 03/8/2020 ông P1 ký nhận 50.000.000đ; ngày 07/01/2021 bà T chuyển khoản 10.000.000d; ngày 08/01/2021 bà T chuyển khoản 5.000.000đ, ngày 15/3/2021 bà D chuyển khoản 21.100.000đ cho ông P1). Mặc dù, các bên không ký hợp đồng mua bán hàng nội thất bằng văn bản, nhưng hai bên thừa nhận có thỏa thuận miệng việc mua bán hàng nội thất; ông P1 thừa nhận đã nhận của bà T số tiền hơn 80.000.000đ, thời hạn giao hàng là đến cuối năm 2020 sẽ hoàn thành. Nhưng đến nay hai bên chưa giao nhận hàng, nguyên nhân: ông P1 nêu ra 02 lý do, thứ nhất bà T chưa xây dựng nhà xong phần thô để ông đo đạc và lắp đặt, vì hàng ông đã mua về để tại nhà ông; thứ hai bà T gọi điện yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng. Bà T nêu lý do là hai bên thoả thuận cuối năm 2020 ông P1 phải giao hàng, chứ không thoả thuận là khi nào làm nhà xong mới giao hàng. Thấy rằng: thông thường việc lắp đặt thiết bị gia dụng trong nhà ở cần phải đo đạc chính xác kích thước những vị trí lắp đặt thì việc lắp đặt mới chính xác, nhưng đến thời hạn giao hàng mà bà T chưa xây nhà thì ông P1 không thể lắp đặt thiết bị được. Như vậy, trong trường hợp này bà T đơn phương huỷ bỏ hợp đồng, nên bà phải chịu trách nhiệm số hàng mà ông P1 đã mua và bà được quyền nhận lại số tiền mà ông P1 chưa mua hàng, nhưng không được tính lãi.

[3] Xét kháng cáo của ông Cao Thanh P1; Hội đồng xét xử thấy rằng: tại cấp sơ thẩm ông P1 yêu cầu bà T phải chịu trách nhiệm số hàng đã mua là 30.000.000đ, còn bà D đại diện cho T thừa nhận sẽ nhận lại 04 cái bồn với điều kiện ông P1 phải có hoá đơn mua hàng (BL 21); do ông P1 không cung cấp được hoá đơn chứng từ hợp lệ nên án sơ thẩm buộc ông P1 phải trả cho bà T 86.100.000đ là toàn bộ số tiền mà ông P1 đã nhận và ông phải chịu trách nhiệm về 04 cái bồn rửa mà ông đã mua. Tại phiên toà hôm nay ông P1 cung cấp chứng cứ là Hoá đơn bán hàng số XBH2085/21 ngày 05/6/2021 của Công ty TNHHDV&TM VLXD HM có địa chỉ tại 293 đường K, HM, Hà Nội, thể hiện ông P1 có mua 04 bộ vòi chậu lavabo cùng phụ kiện với giá 21.200.000đ và các chi phí đi lại, vận chuyển là 1.800.000đ; tổng cộng chi phí 04 bồn rửa là 23.000.000đ. Do vậy, cần buộc bà T phải chịu trách nhiệm số tiền mà ông P1 đã chi phí như đã nêu trên và nhận 04 bộ lavabo mà ông P1 đã mua. Số tiền còn lại 63.100.000đ (86.100.000đ – 23.000.000đ), ông P1 phải có trách nhiệm thanh toán lại cho bà T, do ông P1 không có lỗi nên ông P1 không phải chịu tiền lãi.

[4] Từ nhận định trên đây; xét thấy toà án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T buộc ông P1 trả lại 100% tiền đặt mua và lắp đặt hàng gia dụng nội thất là đúng pháp luật, nhưng buộc ông P1 phải trả lãi cho bà T 4.305.000đ là không có căn cứ. Tại phiên tòa hôm nay, ông P1 kháng cáo có cung cấp được một số chứng cứ mới phù hợp với yêu cầu của bà T trước đây; do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông Cao Thanh P1, sửa một phần Bản án sơ thẩm theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng là có căn cứ.

[5] Do sửa lại số tiền ông P1 phải trả cho bà T, nên điều chỉnh lại số tiền án phí sơ thẩm cho phù hợp. Do kháng cáo của ông P1 được chấp nhận, nên ông P1 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308, 309 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015;

1/ Chấp nhận kháng cáo của ông Cao Thanh P1; sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2022/DS-ST ngày 11/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, 37, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 430 của BLDS năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị Kim T. Buộc bị đơn ông Cao Thanh P1 phải trả cho nguyên đơn bà Phạm Thị Kim T số tiền 63.100.000đ (sáu mươi ba triệu một trăm nghìn đồng).

Ông Cao Thanh P1 có trách nhiệm giao cho bà Phạm Thị Kim T 04 bộ vòi chậu lavabo và phụ kiện kèm theo Hoá đơn bán hàng số XBH2085/21 ngày 05/6/2021 của Công ty TNHHDV&TM VLXD HM có địa chỉ tại 293 K, quận HM, Thành phố Hà Nội.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị đơn chưa trả khoản tiền trên thì hàng tháng phải chịu lãi, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

2/ Án phí dân sự: ông Cao Thanh P1 phải chịu 3.155.000đ án phí dân sự sơ thẩm; ông Cao Thanh P1 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, hoàn lại cho ông P1 300.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm do bà Cao Ngọc Trà My nộp thay ông P1 theo biên lai thu tiền số 0256 ngày 14/9/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (22/6/2023). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

603
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 154/2023/DS-PT về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:154/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;