TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 154/2021/HSST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 150/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 207/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Ngọc L; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 02 tháng 9 năm 1985; Nơi cư trú xóm A, xã H, huyện Q, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn:
9/12; Con ông: Nguyễn Viết T, sinh năm 1956 và con bà: Đặng Thị B (đã chết); Anh chị em ruột: 03 người, bị cáo là thứ hai; Vợ; Con: Chưa có. Tiền án: Bản án số 447/HSST ngày 11/12/2003 bị Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 36 tháng về tội " Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ"; Bản án số 46/HSST ngày 26/7/2006 bị Toà án nhân dân huyện Quế Phong xử phạt 03 năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Tổng hợp với bản án số 447/HSST ngày 11/12/2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An buộc bị cáo phải chấp hành chung cho 02 (hai) bản án là 05 (năm) năm tù. Chấp hành xong ngày 26/6/2010; Bản án số 15/2015/HSST, ngày 08/4/2015 bị Toà án nhân dân huyện Quỳnh Lưu xử phạt 24 tháng tù về tội: "Trộm cắp tài sản". Chấp hành xong hình phạt ngày 15/10/2016; Bản án số 08/2017/HSST, ngày 28/3/2017 bị Toà án nhân dân huyện Quỳnh Lưu xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội:
"Trộm cắp tài sản". Chấp hành xong hình phạt ngày 27/4/2020; Bản án số 96/2020/HSST, ngày 20/7/2020 bị Toà án nhân dân huyện Diễn Châu xử phạt 09 tháng tù về tội: "Trộm cắp tài sản". Chấp hành xong hình phạt ngày 15/02/2021; Tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 16/12/2013 bị Công an xã H, huyện Q ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng; Ngày 27/6/2014 bị Công an xã H, huyện Q ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/7/2021 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Chị Văn Thị T, sinh năm 1996. Vắng mặt.
Nơi cư trú: Xóm B, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Hồ Ngọc H, sinh năm 1990. Vắng mặt.
Nơi cư trú: Xóm C, xã H, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ ngày 22/7/2021 sau khi ở quán Karaoke “G M” về, Nguyễn Ngọc L đi bộ ra đường Quốc lộ 1A theo hành lang phía tây Quốc lộ 1A theo hướng V - H N. Khi đi đến cổng Bệnh viện đa khoa huyện Q thì L phát hiện nhà chị Văn Thị T có đèn điện đang sáng, cửa cuốn và cửa phụ đang mở nên L đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Quan sát xung quanh không có ai nên L đã đi vào phòng khách nhà chị T lấy trộm 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XR màu đen đang đặt trên bàn rồi đi bộ về nhà. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, L đi về nhà nhờ Nguyễn Văn L kiểm tra điện thoại, do không biết mật khẩu nên L trả lại điện thoại cho L. Đến khoảng 10 giờ ngày 23/7/2021, L đi sang nhà Trần Thanh H để hỏi "có ai mở mật khẩu điện thoại không" thì H gọi điện cho Hồ Ngọc H. H dùng máy điện thoại của mình chụp lại điện thoại của L rồi gửi qua Zalo cho H xem. Một lúc sau, H đi xe mô tô đến nhà H lấy điện thoại để đưa về cho thợ mở mật khẩu. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, L nhờ H chở đến quán sửa chữa điện thoại của anh Hồ Ngọc H để lấy điện thoại nhưng anh H nói với L phải mất một tháng và mất số tiền 2.500.000đ mới sửa được điện thoại. Nên L đã bán lại chiếc điện thoại trên cho anh H với số tiền 2.100.000đ, số tiền trên L đã tiêu xài hết.
Ngày 24/7/2021, nhận thấy hành vi của mình đã bị phát hiện nên Nguyễn Ngọc L đã đến Công an xã H, huyện Q để đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình đồng thời giao nộp 01 (một) chiếc áo phông màu đen có sọc ngang màu trắng, loại áo phông cộc tay cổ tròn, trước ngực có hình hoa văn màu trắng không xác định rõ hình.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 325/KL-HĐG ngày 29/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Ủy ban nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An kết luận: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XR màu đen, dung lượng 64GB, mặt lưng kính bị nứt vỡ hình mạng nhện mà L đã trộm cắp của chị Văn Thị T vào ngày 22/7/2021 có giá trị tại thời điểm chiếm đoạt là 6.000.000đ (Sáu triệu đồng).
Bản cáo trạng số 161/CT-VKS-QL ngày 14/9/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An truy tố Nguyễn Ngọc L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g, khoản 2, Điều 173 Bộ luật Hình sự;
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm g, khoản 2, Điều 173; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt Nguyễn Ngọc L từ 24 đến 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Vật chứng vụ án: Áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) chiếc áo phông ngắn tay sọc đen trắng. Về trách nhiệm dân sự:
- Chị Văn Thị T đã nhận lại tài sản bị mất trộm và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên miễn xét.
- Buộc bị cáo phải trả cho anh Hồ Ngọc H số tiền 2.100.000đ đ.
Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội; Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc L phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đ án phí dân sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Ngọc L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo thấy hành vi của mình là sai, xin hội đồng xét xử cho bị cáo mức án nhẹ nhất để sớm về đoàn tụ với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Lưu, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai có tại hồ sơ; phù hợp về thời gian, địa điểm và đặc điểm tài sản báo bị mất của bị hại chị Văn Thị T. Sự phù hợp, thống nhất của các chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở xác định: khoảng 20 giờ, ngày 22/7/2021 Nguyễn Ngọc L đã lén lút lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XR màu đen của chị Văn Thị T, có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 6.000.000đ. Bị cáo phạm tội liên tục, có 05 tiền án và chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS như Cáo trạng đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Vụ án có tính chất nghiêm trọng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Bị cáo có 5 tiền án chưa được xóa án tích, không coi đó là bài học mà tiếp tục phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật. Nên cần thiết phải cách ly khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[4] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội bị cáo đã đầu thú quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự. Nên áp dụng mức khởi điểm của khung hình phạt là có căn cứ, đủ nghiêm minh và thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của pháp luật.
Ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở, được chấp nhận.
Về hình phạt bổ sung: Điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn về kinh tế nên miễn phạt tiền bổ sung. [5] Về vật chứng: 01 (một) chiếc áo phông ngắn tay sọc đen trắng là chiếc áo bị cáo mặc để đi trộm cắp tài sản. Chiếc áo không còn giá trị sử dụng, bị cáo đề nghị tiêu hủy. Nên tịch thu tiêu hủy chiếc áo phông ngắn tay sọc đen trắng.
[6] Về trách nhiệm dân sự:
- Chị Văn Thị T đã nhận lại tài sản bị mất trộm và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên miễn xét.
- Anh Hồ Ngọc H không biết chiếc điện thoại Iphone XR màu đen là tài sản do bị cáo phạm tội mà có nên đã mua với số tiền 2.100.000 đ, anh H đã trả lại điện thoại Iphone XR màu đen cho người bị hại. Nên buộc bị cáo phải trả lại cho anh Hồ Ngọc H số tiền 2.100.000 đ [7] Hồ Ngọc H đã mua của Linh 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XR màu đen, Nguyễn Văn L là người mà L nhờ kiểm tra máy điện thoại và Trần Thanh H là người đã giới thiệu cho L đến quán anh H để sửa điện thoại. Quá trình điều tra xác định anh H, L và H không biết đây là tài sản do L trộm cắp mà có, đồng thời không có hứa hẹn từ trước với L về các nội dung trên nên không có căn cứ để xử lý.
[8] Bị cáo Nguyễn Ngọc L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm g, khoản 2, Điều 173; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt Nguyễn Ngọc L 24 (Hai mươi tư) tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản".
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 24/7/2021.
2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) chiếc áo phông ngắn tay sọc đen trắng, cũ đã qua sử dụng (Đặc điểm vật chứng có tại biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Quỳnh Lưu với Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳnh Lưu hồi 15 giờ ngày 14/9/2021).
3. Trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải trả cho anh Hồ Ngọc H số tiền 2.100.000 đ (Hai triệu một trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc có đơn yêu cầu của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
4. Án Phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội; Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết bản sao bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An
Bản án 154/2021/HSST ngày 27/09/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 154/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về