TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 154/2019/LĐ-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI TIỀN LƯƠNG, BẢO HIỂM XÃ HỘI
Trong ngày 26 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 15/2019/TLST-LĐ ngày 30 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp “đòi tiền bảo hiểm xã hội” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/2019/QĐXX-ST ngày 21 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Dương Thị T – sinh năm 1987; Trú tại: Tổ 69, phường H, quận L, TP Đà Nẵng.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Thanh H – sinh năm 1987; Trú tại: Số 45 đường H, tổ 10, phường P, quận S, TP Đà Nẵng (Theo giấy ủy quyền có xác nhận của UBND phường Hòa Khánh Nam ngày 10.6.2019). Có mặt.
- Bị đơn: Công ty TNHH MTV T; địa chỉ: Đường số 06, khu công nghiệp H, quận L, TP Đà Nẵng.
Đại diện theo pháp luật: Ông K – Chức vụ: Giám đốc; trú tại: 6 N, G, Seoul, Hàn Quốc. Vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội thành phố Đ; địa chỉ: Số 43 đường X, quận H, TP Đà Nẵng.
Đại diện theo pháp luật: Ông Đinh Văn H – Chức vụ: Giám đốc.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Anh H – Chức vụ: Phó trưởng phòng Quản lý thu (Theo giấy ủy quyền số 1983/BHXH-QLT ngày 25.11.2019). Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn là bà Dương Thị T và đại diện theo ủy quyền là bà Lê Thị Ngọc O trình bày:
Bà Dương Thị T vào làm việc tại Công ty TNHH MTV T từ ngày 15.5.2015. Quá trình làm việc bà T luôn chấp hành nội quy, quy định của Công ty và đi làm đầy đủ. Tuy nhiên, từ tháng 11.2016 đến tháng 10.2017 Công ty TNHH MTV T đã trích nộp bảo hiểm xã hội từ tiền lương của bà T nhưng không thực hiện việc đóng bảo hiểm xã hội cho Bảo hiểm xã hội thành phố Đ (riêng tháng 11.2017 đến tháng 4.2018 bà T nghỉ thai sản nên không đóng bảo hiểm xã hội). Nay bà T đề nghị Công ty TNHH MTV T có trách nhiệm đóng tiền bảo hiểm xã hội còn nợ đối với Bảo hiểm xã hội thành phố Đ: 13.766.282 đồng gốc và 1.038.352 đồng lãi. Tổng nợ bảo hiểm xã hội là 14.804.634 đồng.
Bị đơn - Công ty TNHH MTV T (Đại diện theo pháp luật: Ông K – Chức vụ: Giám đốc) đã được triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án để giải quyết và cũng không có văn bản trình bày ý kiến.
Theo bản tự khai, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Bảo hiểm xã hội thành phố Đ – Đại diện theo ủy quyền là ông Trần Anh H trình bày:
Công ty TNHH MTV T không thực hiện đóng bảo hiểm xã hội cho bà Dương Thị T từ tháng 11.2016 đến tháng 10.2017 với tổng số tiền gốc là 13,766,283 đồng. Ngoài ra do Công ty TNHH MTV T chậm đóng bảo hiểm xã hội nên phải chịu tiền lãi từ tháng 02.2017 đến tháng 10.2017 và từ tháng 5.2018 đến tháng 6.2018 là 1,038,351 đồng. Tổng nợ gốc và lãi Công ty còn nợ là 14,804,634 đồng. Việc tính lãi chậm đóng bảo hiểm xã hội năm 2017 thực hiện theo Thông báo số 259/TB-BHXH ngày 02.3.2017 Bảo hiểm xã hội thành phố Đ là 15,8%/năm (1,317%/tháng); lãi chậm đóng Bảo hiểm xã hội năm 2018 thực hiện theo Thông báo số 195/TB-BHXH ngày 30.01.2018 của Bảo hiểm xã hội thành phố Đ là 14,5%/năm (1,2084%/tháng).
Việc người lao động khởi kiện yêu cầu Công ty TNHH MTV T đóng tiền bảo hiểm xã hội còn nợ là đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra, Bảo hiểm xã hội thành phố Đ đã đồng ý cho bà T đóng số tiền bảo hiểm xã hội còn nợ để giải quyết chế độ thai sản. Tuy nhiên, để đảm bảo đúng quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội thì đề nghị Tòa án vẫn buộc Công ty TNHH MTV T đóng số tiền bảo hiểm xã hội còn nợ cho Bảo hiểm xã hội thành phố Đ. Sau khi Công ty thực hiện đóng bảo hiểm xong, Bảo hiểm xã hội thành phố Đ sẽ trả lại số tiền bảo hiểm xã hội mà bà T đã đóng. Do Công ty TNHH MTV T ngừng hoạt động nên đối với mọi trường hợp Bảo hiểm xã hội thành phố Đ chỉ tính lãi chậm đóng đến tháng 7.2018, không tiếp tục tính lãi đến thời điểm xét xử cũng như giai đoạn thi hành án sau này.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu:
- Về thủ tục tố tụng: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu thống nhất về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm hội đồng xét xử nghị án. Các đương sự đã được đảm bảo thực hiện đúng, đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; riêng bị đơn là Công ty TNHH MTV T đã không trình bày ý kiến của mình và vắng mặt không có lý do trong suốt quá trình tố tụng mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nên phải chịu hậu quả pháp lý về sự vắng mặt của mình.
- Về nội dung vụ án: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc Công ty TNHH MTV T đóng bảo hiểm xã hội cho bà Dương Thị T thời gian từ tháng 11.2016 đến tháng 10.2017 với số tiền 14,804,634 đồng (trong đó gốc là 13,766,283 đồng và lãi là 1,038,351 đồng).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp về lao động giữa nguyên đơn bà Dương Thị T và Công ty TNHH MTV T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng theo quy định tại khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải: Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định tại các Điều 208, 209, 210 và 211 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa, nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không xuất trình thêm chứng cứ mới.
Bị đơn Công ty TNHH MTV T được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa Công ty TNHH MTV T vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xử vắng mặt Công ty TNHH MTV T.
[2] Về nội dung tranh chấp:
Trong thời gian từ tháng 11.2016 đến tháng 10.2017 Công ty TNHH MTV T không thực hiện đóng BHXH nên bà Dương Thị T yêu cầu Công ty đóng tiền BHXH còn nợ là 14,804,634 đồng (trong đó gốc là 13,766,283 đồng và lãi là 1,038,351 đồng) cho bà.
HĐXX xét thấy Hợp đồng lao động số 138/2017/HĐLĐ-L3 ngày 13.8.2017 là hợp đồng không xác định thời hạn. Theo quy định khoản 1 Điều 186 Bộ luật Lao động, Điều 2 và khoản 2 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội thì người sử dụng lao động, người lao động phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc; hằng tháng người sử dụng lao động có trách nhiệm trích tiền lương của người lao động để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội. Việc Công ty TNHH MTV T không thực hiện đóng bảo hiểm xã hội từ tháng 11.2016 đến tháng 10.2018 cho bà T là trái quy định của pháp luật nên cần phải buộc Công ty thực hiện đóng bảo hiểm xã hội với số tiền gốc là 13,766,283 đồng. Do Công ty TNHH MTV T chậm đóng BHXH nên phải chịu lãi chậm đóng theo quy định của Bảo hiểm xã hội thành phố Đ, cụ thể: Năm 2017 thực hiện theo Thông báo số 259/TB-BHXH ngày 02.3.2017 Bảo hiểm xã hội thành phố Đ là 15,8%/năm (1,317%/tháng); năm 2018 thực hiện theo Thông báo số 195/TB- BHXH ngày 30.01.2018 của Bảo hiểm xã hội thành phố Đ là 14,5%/năm (1,2084%/tháng). Số lãi chậm đóng mà Công ty phải chịu là 1,038,351 đồng. Như vậy, Công ty TNHH MTV T phải thực hiện đóng tiền BHXH còn nợ cho bà T là: 13,766,283 đồng gốc + 1,038,351 đồng lãi = 14,804,634 đồng.
Do Công ty TNHH MTV T ngừng hoạt động, Bảo hiểm xã hội thành phố Đ không tiếp tục tính lãi chậm đóng BHXH phát sinh từ tháng 8.2018 nên HĐXX không xem xét.
Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật nên HĐXX chấp nhận.
[3] Án phí lao động sơ thẩm: Công ty TNHH MTV T phải chịu án phí lao động sơ thẩm là 14,804,634 đồng x 3 % = 444,139 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điều 32, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 229, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Điều 47, Điều 90, Điều 96, Điều 186, Điều 201 của Bộ luật Lao động;
- Điều 17, Điều 18, Điều 19, Điều 21, Điều 85, Điều 86, khoản 2 Điều 89 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
1. Chấp nhận đơn khởi kiện về việc “Tranh chấp đòi tiền bảo hiểm xã hội” của bà Dương Thị T.
Xử: Buộc Công ty TNHH MTV T có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội cho bà Dương Thị T tại Bảo hiểm xã hội thành phố Đ trong thời gian từ tháng 01.2016 đến tháng 10.2017 với số tiền 14.804.634 đồng (trong đó gốc là 13.766.283 đồng và lãi là 1,038,351 đồng).
2. Án phí lao động sơ thẩm: Án phí lao động sơ thẩm là 444.139 đồng Công ty TNHH MTV T phải chịu.
3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 06, 07, 07a và 09 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 154/2019/LĐ-ST ngày 26/11/2019 về tranh chấp đòi tiền lương, bảo hiểm xã hội
Số hiệu: | 154/2019/LĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 26/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về