Bản án 154/2018/HNGĐ-ST ngày 13/07/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẤM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 154/2018/HNGĐ-ST NGÀY 13/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 82/2018/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 3 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 177/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hồ Bé N, sinh năm 1991(có mặt)

Cư trú tại: Ấp Giá Ngự, xã Đ H, huyện CN, tỉnh C.

- Bị đơn: Anh Lê Văn M, sinh năm 1992 (vắng mặt)

Cư trú tại: Ấp Bờ Đập, xã TP, huyện ĐD, tỉnh C.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Hồ Minh T (vắng mặt)

Cư trú tại: Ấp Giá Ngự, xã ĐH, huyện CN, tỉnh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 06/3/2018 và trong qúa trình xét xử nguyên đơn chị Hồ Bé N trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Lê Văn M kết hôn năm 2015, đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận số 122 ngày 22/11/2016 tại Ủy ban nhân dân xã TP, huyện Đ, tỉnh C. Trong quá trình chung sống vợ chồng có nhiều điểm bất đồng khó hòa hợp, anh M về sống với vợ cũ và hiện nay vợ chồng đã ly thân gần một năm. Nhận thấy tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị yêu cầu được ly hôn với anh M.

Về nuôi con chung: Tên Lê Chí T, sinh ngày 30/8/2016, hiện con đang sống với chị, khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con và yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật. Thời gian cấp dưỡng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu T tròn 18 tuổi. Phương thức cấp dưỡng hàng quý.

Về tài sản chung: Không có Về tài sản riêng: Chị có xây dựng ngôi nhà trên phần đất của mẹ chồng cho mượn, diện tích khoảng 60m2 tọa lạc tại ấp BĐ, xã TP, huyện ĐD, tỉnh C, giá ngôi nhà khi xây dựng 10.000.000 đồng. Ngoài ra, anh M có mượn chị 01 điện thoại hiệu HuaWei cùng sim, trị giá 2.400.000 đồng. Khi ly hôn chị yêu cầu anh Mộng giao trả cho chị giá trị căn nhà và 01 điện thoại HuaWei, tổng cộng là 12.400.000 đồng.

Về nợ riêng: Anh M có mượn của ông Hồ Minh T số tiền 6.000.000 đồng.

Đối với bị đơn anh Lê Văn M: Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho anh M theo quy định pháp luật, nhưng anh Mộng không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị Nữa.

Đối với người có quyền, nghĩa vụ liên quan ông Hồ Minh T: Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho ông T theo quy định pháp luật, nhưng ông T không có ý kiến và không có đơn yêu cầu đối với số tiền 6.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Anh Lê Văn M là bị đơn và ông Hồ Minh T là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án đã được Tòa án tống đạt hợp lệ đến Tòa án để tham gia tố tụng nhưng anh M và ông T vắng mặt không có lý do, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh M và ông T .

[2] Về hôn nhân: Chị N với anh Lê Văn M kết hôn năm 2015, hôn nhân tự nguyện, đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 122 ngày 22/11/2016 tại Ủy ban nhân dân xã TP, huyện ĐD, tỉnh C. Tại phiên tòa, chị Nữa giữ nguyên yêu cầu ly hôn với anh M với những nguyên nhân sau: Trong quá trình chung sống vợ chồng có nhiều điểm bất đồng khó hòa hợp, anh M không chăm lo cho vợ con và hiện nay vợ chồng đã ly thân gần một năm. Nay, chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên yêu cầu ly hôn với anh M . Đối với anh M , Tòa án đã thông báo thụ lý vụ án, thông báo hòa giải và triệu tập hợp lệ anh M nhiều lần đề tham gia hòa giải, nhưng anh M vắng mặt không tham gia hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng và không có ý kiến đối với yêu cầu của chị N. Hiện nay vợ chồng cũng không chung sống cùng nhau, điều này cho thấy tình trạng hôn nhân giữa chị N với anh M đã có mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị N về việc ly hôn với anh M.

[3] Về nuôi con chung: Tên Lê Chí T, sinh ngày 30/8/2016, hiện con đang sống với chị N, khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con và yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật. Hội đồng xét xử thấy rằng, từ khi anh chị ly thân đến nay, cháu T do chị Nữa trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng ổn định, hơn nữa cháu T chưa tròn 02 tuổi, cần phải có sự nuôi dưỡng, giáo dục, đảm bảo sự phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần của cháu T. Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của cháu T, theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, cần giao cháu T cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng. Anh M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị N yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con theo qui định pháp luật. Xét thấy, theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Tại phiên tòa chị N xác định công việc hiện nay của anh M là thợ hồ. Anh M không có ý kiến gì và vắng mặt tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào mức thu nhập trung bình tại đia phương buộc anh M có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 700.000 đồng là phù hợp. Phương thức cấp dưỡng hàng qúy.

Thời gian cấp dưỡng: Tại phiên tòa chi N yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu T tròn 18 tuổi. Xét thấy, yêu cầu của chị N là phù hợp, nên Hội đồng xét xử buộc anh M cấp dưỡng cho cháu T kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu T tròn 18 tuổi

[5] Về chia tài sản riêng: Tại đơn khởi kiện chị N xác định có xây dựng 01 ngôi nhà trên phần đất của mẹ chồng cho mượn, diện tích khoảng 60m2. Trị giá ngôi nhà khi xây dựng 10.000.000 đồng và anh M có mượn của 01 điện thoại hiệu HuaWei cùng sim, trị giá 2.400.000 đồng. Tuy nhiên, vào ngày 31/5/2018 chị N rút yêu cầu buộc anh M giao trả cho chị giá trị ngôi nhà và 01 điện thoại HuaWei. Hội đồng căn cứ vào khoản 2 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự đình chỉ giải quyết yêu cầu của chị N . Nếu sau này giữa chị N và anh M có phát sinh tranh chấp về tài sản thì có quyền khởi kiện bằng một vụ kiện dân sự khác.

[6] Về nợ riêng: Anh M có mượn của ông Hồ Minh T số tiền 6.000.000 đồng. Xét thấy, từ khi thụ lý đến khi giải quyết vụ án ông T không có đơn yêu cầu độc lập khởi kiện anh M về số tiền 6.000.000 đồng, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Án phí dân sự sơ thẩm: Tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định: Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Do đó, chị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng.

[8] Án phí cấp dưỡng nuôi con: Anh Lê Văn M phải chịu 300.000 đồng

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81; khoản 2 Điều 82; Điều 83; Điều 107; Điều 110; khoản 1 Điều 116; Điều 117; khoản 1 Điều 119 của Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ vào Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, điểm c khoản 1 Điều 217, điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hồ Bé N.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Hồ Bé N và anh Lê Văn M.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung Lê Chí T, sinh ngày 30/8/2016 cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng. Anh Lê Văn M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

2.2. Anh Lê Văn M phải cấp dưỡng nuôi con với chị N số tiền là 700.000đ/tháng (bảy trăm nghìn đồng một tháng). Thời hạn cấp dưỡng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu T thành niên (đủ 18 tuổi). Phương thức cấp dưỡng hàng qúy.

Kể từ ngày chị Hồ Bé N có đơn yêu cầu thi hành án, nếu anh Lê Văn M chậm thi hành khoản tiền cấp dưỡng nuôi con, thì hàng tháng anh M còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

3. Về chia tài sản: Đình chỉ yêu cầu của chị N buộc anh M giao trả cho chị giá trị ngôi nhà và 01 điện thoại HuaWei, tổng số tiền 12.400.000 đồng. Nếu sau này giữa chị N và anh M có phát sinh tranh chấp về tài sản thì có quyền khởi kiện bằng một vụ kiện dân sự khác.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Chị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0009611 ngày 06/03/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi; chị N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình. Chị N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch; hoàn trả lại cho chị N 310.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 0009612 ngày 06/03/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi Án phí cấp dưỡng cho con anh Lê Văn M phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) chưa nộp.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Chị N có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh M và ông T có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

382
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 154/2018/HNGĐ-ST ngày 13/07/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản

Số hiệu:154/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;