Bản án 1533/2019/HNGĐ-ST ngày 13/11/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1533/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/11/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 13 tháng 11 năm 2019 tại Phòng xử án của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lÝ số: 955/2019/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 7 năm 2019 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 321/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 293/2019/QĐST-DS ngày 04 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Đặng Kiều O, sinh năm 1980; Địa chỉ cư trú: Đường A, phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt Bị đơn: Ông Trương Hoài P, sinh năm 1971; Địa chỉ cư trú: Đường A, phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn khởi kiện đề ngày 24 tháng 5 năm 2019, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn - bà Đặng Kiều O trình bày:

Tôi và ông P tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh L vào ngày 10/02/2006. Trước khi kết hôn, tôi biết ông P có quan hệ tình cảm với người phụ nữ tên Nguyễn Thị G ở quận N và có con chung tên Trương Đăng K, sinh năm 1997. Tôi đồng N kết hôn vì tôi tin tưởng ông P và bà G không còn liên quan gì với nhau. Tuy nhiên, tôi vẫn luôn buồn phiền, chán nản vì bà G nhiều lần nhắn tin nhục mạ tôi, rêu rao tôi với nhiều người còn con riêng luôn nhắn tin xin tiền ông P. Ông P chăm lo cho con riêng đầy đủ, học hành thành tài, đóng bảo hiểm cho con riêng từ khi còn nhỏ cho đến trưởng thành nhưng ông P không chăm lo cho con tôi đầy đủ, chu đáo bằng. Vì vậy, tôi đã nộp đơn ly hôn với ông P vào năm 2008, sau đó chúng tôi tự nguyện trở về đoàn tụ gia đình theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 602/2008/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 8 năm 2008 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, T phố Hồ Chí Minh.

Trong thời gian sống chung, chúng tôi thường xuyên gây gổ với nhau vì ông P không thương tôi, không chăm sóc gia đình, không dạy dỗ các con, giấu giếm tiền lương, không quan tâm đến việc mỗi tháng ông đưa tiền cho tôi có đủ chi tiêu trong gia đình hay không trong khi ông P vẫn giữ quan hệ với vợ trước và chăm lo cho con riêng đầy đủ. Vì thương các con, tôi đã cố gắng chịu đựng hơn 10 năm nay nhưng ông P vẫn không thay đổi. Gần đây, người bạn gái chơi rất thân với tôi hiểu được hoàn cảnh khó khăn của tôi nên bạn tôi đã đến nhà của tôi phụ giúp buôn bán và chăm sóc các con để tôi đi làm, chia sẻ với tôi những khó khăn trong cuộc sống. Ông P không đồng ý bạn thân của tôi đến nhà phụ giúp tôi và đổ lỗi cho rằng bạn thân tôi làm cho chúng tôi mâu thuẫn. Ông P chỉ biết đổ lỗi cho bạn tôi mà không biết nhìn lại bản thân mình, không nhận ra được chúng tôi mâu thuẫn là do nguyên nhân gì, đúng sai như thế nào càng làm cho tôi quyết tâm ly hôn thêm. Tôi và ông P sống chung nhà nhưng chúng tôi ly thân với nhau từ tháng 5/2019 cho đến nay.

Trong quá trình giải quyết vụ án, ông P không đồng ý ly hôn, Tòa án tạo điều kiện cho ông P có thời gian để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng ông P không có thành ý hàn gắn mâu thuẫn, ông không điện thoại cho tôi, không vào nhà nói chuyện hay giải tỏa mâu thuẫn gì với tôi, không quan tâm đến tôi, nói xấu tôi với hàng xóm. Tôi không còn yêu thương, tôn trọng và tin tưởng ông P nên tôi khởi kiện yêu cầu:

Về quan hệ hôn nhân: Tôi cầu ly hôn với ông P Về con chung: Tôi yêu cầu trực tiếp nuôi nuôi ba con chung tên Trương Tiến D, sinh ngày 08/3/2006, Trương Thanh Như N, sinh ngày 10/10/2010 và Trương Tiến T, sinh ngày 14/12/2011. Tôi không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con Về chia tài sản khi ly hôn: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Tại bản tự khai ngày 21/8/2019, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn – ông Trương Hoài P trình bày:

Tôi thống nhất với lời khai của bà O về thời gian kết hôn và con chung. Trong thời gian chung sống, chúng tôi thường xuyên gây gổ với nhau do chúng tôi bị áp lực từ việc chăm sóc, nuôi dạy ba đứa con đang tuổi ăn học, bị thiếu hụt tiền bạc và bà O luôn nghi ngờ tôi còn giữ quan hệ với người vợ trước, lo lắng và chăm sóc con riêng nhiều hơn bà O và các con. Tôi muốn tâm sự, chia sẻ với bà O nhưng bà có thái độ không hợp tác, không muốn nghe nên tôi không nói nữa, vợ chồng không hiểu nhau.

Khoảng hơn nửa năm nay, bạn thân của bà O xuất hiện, chúng tôi càng phát sinh nhiều mâu thuẫn hơn trong cuộc sống vợ chồng, bạn thân của bà O thường xuyên ở nhà của chúng tôi, chăm sóc và bênh vực bà O mọi vấn đề. Tôi nói đến bạn của bà O thì bà O cáu gắt, chúng tôi giận hờn và ly thân từ tháng 5/2019. Bà O không muốn cho tôi ở chung nhà nên tôi dọn ra sống riêng từ tháng 7/2019 đến nay.

Sau khi Tòa án hòa giải, tôi đã cố gắng phụ giúp bà O chăm sóc, đưa đón các con đi học, đưa tiền cho bà O chi tiêu trong gia đình. Tuy nhiên, chúng tôi ít khi gặp nhau vì thời gian làm việc chéo với nhau, có bạn của bà O ở trong nhà nên tôi không vào nhà nói chuyện, giải tỏa với bà O được đồng thời tôi thường xuyên tăng ca nên không có thời gian điện thoại, nhắn tin cho bà O. Tôi rất yêu thương bà O và các con và tôi sống có trách nhiệm với gia đình. Tôi đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi và bà O được đoàn tụ.

Trong trường hợp tôi buộc phải ly hôn theo quyết định của Tòa:

Về con chung: Tôi đồng N giao cho bà O trực tiếp nuôi ba con chung tên Trương Tiến D, sinh ngày 08/3/2006, Trương Thanh Như N, sinh ngày 10/10/2010 và Trương Tiến T, sinh ngày 14/12/2011. Tôi tự cấp dưỡng nuôi con theo khả năng của mình Về chia tài sản khi ly hôn: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bà O yêu cầu ly hôn với ông P. Ông P cư trú tại quận Gò Vấp, T phố Hồ Chí Minh. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, đây là tranh chấp về ly hôn, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, T phố Hồ Chí Minh.

[2] Về yêu cầu của nguyên đơn:

Hôn nhân giữa bà O và ông P là hôn nhân tự nguyện và hợp pháp được pháp luật công nhận theo Giấy chứng nhận kết hôn số 08, quyển số 01/HT-2006 ngày 10/02/2006 của Ủy ban nhân dân xã Thanh Đức, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.

Xét, ông P và bà O thừa nhận ông bà thường xuyên gây gổ với nhau về mối quan hệ giữa ông P với người vợ trước và con riêng, về mối quan hệ giữa bà O và người bạn thân của bà O, về tiền bạc dẫn đến việc ông bà sống ly thân với nhau từ tháng 5/2019 cho đến nay. Căn cứ khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xác định ông P và bà O có phát sinh mâu thuẫn trong quá trình chung sống là sự thật. Hôn nhân bền vững và hạnh phúc khi vợ chồng yêu thương, tin tưởng, tôn trọng, quan tâm, chia sẻ, giúp đở nhau và cùng nhau thực hiện các công việc trong gia đình. Xét, lời trình bày của bà O và ông P trong quá trình giải quyết vụ án thể hiện bà O và ông P chung sống với nhau hơn 13 năm nhưng ông bà chưa thực sự đồng cảm và thấu hiểu lẫn nhau, chưa chia sẻ và giúp đở nhau vượt qua khó khăn và quan trọng hơn hết là cả hai không tin tưởng nhau. Bà O luôn nghi ngờ ông P giữ mối quan hệ với người vợ trước và chăm lo cho con riêng đầy đủ hơn con chung trong suốt quá trình chung sống nhưng ông P vẫn không giải tỏa được khúc mắt cho bà O đồng thời ông P có yêu cầu đoàn tụ nhưng ông P không tích cực tìm cơ hội giải tỏa mâu thuẫn, không đưa ra được giải pháp khả thi để hàn gắn tình cảm vợ chồng và ông P cũng nghi ngờ bạn thân của bà O tác động bà O ly hôn với ông. Chính điều này đã làm cho hôn nhân của bà O và ông P lâm vào bế tắc, không thể giải tỏa hàn gắn được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà O.

Xét, bà O và ông P thỏa thuận bà O trực tiếp nuôi ba con chung tên Trương Tiến D, sinh ngày 08/3/2006, Trương Thanh Như N, sinh ngày 10/10/2010 và Trương Tiến T, sinh ngày 14/12/2011 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Xét, bà O và ông P không yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con và chia tài sản khi ly hôn nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[3] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016,

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 5, Điều 227, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 110 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Đặng Kiều O được ly hôn với ông Trương Hoài P.

Giấy chứng nhận kết hôn số 08, quyển số 01/HT-2006 ngày 10/02/2006 của Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh L hết hiệu lực.

2. Về con chung: Bà O được trực tiếp, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Trương Tiến D, sinh ngày 08/3/2006, Trương Thanh Như N, sinh ngày 10/10/2010 và Trương Tiến T, sinh ngày 14/12/20118. Ông P có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con mà không ai được cản trở.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về cấp dưỡng nuôi con và chia tài sản khi ly hôn: Bà O và ông P không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

4. Về án phí sơ thẩm: Bà O phải chịu án phí là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2019/0001243 ngày 31/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà O đã nộp đủ án phí.

5. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b, 9 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 1533/2019/HNGĐ-ST ngày 13/11/2019 về ly hôn

Số hiệu:1533/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;