Bản án 153/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội tổ chức đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 153/2020/HS-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 28 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố RG xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 130/2019/TLST-HS, ngày 17 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 160/2020/QĐXXST-HS, ngày 08 tháng 9 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Đỗ Hoàng L - sinh năm 1983; Nơi ĐKTT: số 106/102, đường Nguyễn Thái H, phường VB, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang; Chỗ ở: số 334/4, đường Nguyễn Trung Tr, phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: kinh doanh; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không có; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Hoàng Kh và bà Huỳnh Thị H (đã chết); Có vợ tên là Dương Thị Kim Ph; Con có 02 người, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: không có; Ngày 24/10/2019, có hành vi tổ chức đánh bạc, bị bắt quả tang và bị tạm giữ; ngày 03/11/2019 được trả tự do; Ngày 03/01/2020, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố RG khởi tố, ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; Hiện bị cáo đang được tại ngoại và cư trú tại địa chỉ: số 334/4, đường Nguyễn Trung Tr, phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Dương Thị Kim Ph - sinh năm 1984; Nơi ĐKTT: số 106/102, đường Nguyễn Thái H, phường VB, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang; Chỗ ở: số 334/4, đường Nguyễn Trung Tr, phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: kinh doanh; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không có; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương Văn Đ và bà Lê Thị L; Có chồng tên là Đỗ Hoàng L; Con có 02 người, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: không có; Ngày 24/10/2019, có hành vi tổ chức đánh bạc, bị bắt quả tang và bị tạm giữ; ngày 03/11/2019 được trả tự do; Ngày 03/01/2020, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố RG khởi tố, ra lệnh bắt tạm giam; Ngày 14/01/2020 bị bắt tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố RG; Đến ngày 14/02/2020, được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng việc cho gia đình bảo lĩnh theo Quyết định số: 08/QĐ-VKS của Viện kiểm sát nhân dân thành phố RG; Hiện bị cáo đang được tại ngoại và cư trú tại địa chỉ: số 334/4, đường Nguyễn Trung Tr, phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Dương Thị Kim L - sinh năm 1980; Nơi cư trú: số 334, đường Nguyễn Trung Tr, phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không có; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương Văn Đ và bà Lê Thị L; Có chồng tên là Trần Văn Kh (đã ly hôn); Con có 01 người, sinh năm 2000; Tiền án, tiền sự: không có; Ngày 24/10/2019, có hành vi tổ chức đánh bạc, bị bắt quả tang và bị tạm giữ; ngày 03/11/2019 được trả tự do; Ngày 03/01/2020, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố RG khởi tố, ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; Hiện bị cáo đang được tại ngoại và cư trú tại địa chỉ: số 334/2, đường Nguyễn Trung Tr, phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

4. Dương Thị Kim L - sinh năm 1982; Nơi ĐKTT: số 334/4, đường Nguyễn Trung Tr, phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang; Chỗ ở: số 334/4A, đường Nguyễn Trung Tr, phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không có; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương Văn Đ và bà Lê Thị L; Có chồng tên là Trần Thanh T (đã ly hôn); Con có 01 người, sinh năm 2006;Tiền án, tiền sự: không có; Ngày 24/10/2019, có hành vi tổ chức đánh bạc, bị bắt quả tang; Ngày 03/01/2020, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố RG khởi tố, ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; Hiện bị cáo đang được tại ngoại và cư trú tại địa chỉ: số 334/4A, đường Nguyễn Trung Tr, phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

5. Nguyễn Thị L (tên gọi khác: Sáu) - sinh năm 1949; Nơi ĐKTT: số 334/30, đường Nguyễn Trung T, phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang; Chỗ ở: số 334/36, đường Nguyễn Trung Tr, phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: không có; Trình độ văn hóa: 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không có; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn K và bà Mã Thị H (cả 02 người đều đã chết); có chồng tên là Trần Minh T (đã chết); Con có 03 người, lớn nhất sinh năm 1971, nhỏ nhất sinh năm 1989; Tiền án, tiền sự: không có; Ngày 24/10/2019, có hành vi tổ chức đánh bạc, bị bắt quả tang; Ngày 03/01/2020, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố RG khởi tố, ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; Hiện bị cáo đang được tại ngoại và cư trú tại địa chỉ: số 334/36, đường Nguyễn Trung Tr, phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

Danh S – sinh năm 1980 (vắng mặt).

Địa chỉ: số 124, đường Nguyễn Cư Tr, phường VQ, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang.

Hà Danh Đ – sinh năm 1995 (vắng mặt).

Địa chỉ: số 238/4, đường Ngô Q, phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang.

Trần Thị T – sinh năm 1970 (có mặt).

Địa chỉ: số 334/16B, đường Nguyễn Trung Tr, phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang.

Trần Văn H – sinh năm 1974 (vắng mặt).

Địa chỉ: số 81/16, đường Trương Đ, phường AB, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang.

Nguyễn Thành T – sinh năm 1982 (có mặt).

Địa chỉ: số 879, đường Ngô Q, phường AH, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang.

Trần Thị Minh Th – sinh năm 1993 (có mặt).

Địa chỉ: số 89/1, đường Nguyễn An N, phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang.

Tạ Hiếu T – sinh năm 1958 (vắng mặt).

Địa chỉ: 18/6, đường Huỳnh Mẫn Đ, phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang.

Dương Văn Q – sinh năm 1979 (vắng mặt).

Địa chỉ: số 9/58A, khu phố Phi K, phường VH, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang.

Trần Quang Kh – sinh năm 1988 (có mặt).

Địa chỉ: 9/3, đường Cô B, phường VB, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang.

Dương Văn Đ – sinh năm 1956 (vắng mặt).

Địa chỉ: số 334, đường Nguyễn Trung Tr, phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang.

Trần Minh Q – sinh năm 1986 (vắng mặt).

Địa chỉ: số 62/27, đường Nguyễn An N, phường VB, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang.

Nguyễn Thị Ngọc N – sinh năm 1952 (có mặt).

Địa chỉ: số 334/22, đường Nguyễn Trung Tr, phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang.

Nguyễn Ngọc Th – sinh năm 1985 (vắng mặt).

Địa chỉ: số 328/7, đường Ngô Q, phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ 30 ngày 24/10/2019, tại tiệm game “Liêm Lâm” ở số 334/4, đường Nguyễn Trung Tr, phường VL, thành phố RG, Công an thành phố RG bắt quả tang Đỗ Hoàng L, Dương Thị Kim Ph, Dương Thị Kim L, Nguyễn Thị L, Võ Kim Q đang tổ chức cho 13 người khác đánh bạc thông qua các trò chơi điện tử (bắn cá, cược thú, đặt tháp và định vị) ăn thua bằng tiền. Thu giữ 04 máy điện tử, 15.320.000 đồng và nhiều dụng cụ khác phục vụ cho việc đánh bạc.

Qua xác minh, nhằm mục đích thu lợi bất chính, Đỗ Hoàng L đã mua sắm các máy trò chơi điện tử, trang thiết bị để tổ chức đánh bạc tại nhà riêng ở địa chỉ 334/4, đường Nguyễn Trung Tr, phường VL, thành phố RG và lấy tên cơ sở là “Lâm Liêm”. Cơ sở hoạt động từ cuối tháng 10 năm 2014, lúc đầu cơ sở chỉ có 01 máy bắn cá (máy có 06 tay chơi), sau đó L mua dần đến đầu năm 2019 được tổng cộng 04 máy trò chơi điện tử máy bắn cá, đặt tháp, định vị và bắn chim (mỗi máy có 08 tay chơi). L và vợ là Dương Thị Kim Ph thay nhau quản lý tiệm game và Ph thuê hai chị ruột của mình là Dương Thị Kim L và Dương Thị Kim L phụ giúp việc bán thẻ, bơm điểm, rút điểm và đổi điểm lấy đồ dùng (bia, gạo, nước ngọt...) nếu người chơi có nhu cầu đổi. Ph thức hoạt động là người chơi phải dùng tiền mặt để mua điểm thông qua các thẻ điểm (tại tiệm game có 04 loại thẻ điểm là 50, 100, 200 và 500 tương đương với giá tiền người chơi mua là 50.000 đồng, 100.000 đồng, 200.000 đồng và 500.000 đồng). Sau đó, người chơi đưa thẻ điểm cho nhân viên, nhân viên sẽ dùng thẻ từ nạp điểm vào máy và người chơi sử dụng điểm đó để đánh bạc trên máy điện tử. Ngoài ra, người chơi có thể mua điểm trực tiếp nhân viên bán điểm và nhân viên bán điểm sẽ nạp điểm vào máy tương đương với số tiền mà người chơi bỏ ra. Nếu người chơi thắng thì L hoặc Linh sẽ rút điểm ra thành thẻ điểm để người chơi đổi lấy đồ dùng.

Từ đầu tháng 8 năm 2019, để thu hút nhiều người chơi L và Ph để cho Võ Kim Q (Chúc) và Nguyễn Thị L (Sáu) vào tiệm dùng tiền mặt mua lại điểm của người chơi với giá tiền bằng 95% giá trị số điểm (nghĩa là nếu thẻ tích lũy 100 điểm sẽ mua 95.000 đồng) sau đó dùng số thẻ điểm mua được bán lại cho những khách chơi có nhu cầu với giá bằng với giá cơ sở bán cho khách (nghĩa là 01 điểm = 1.000 đồng) để kiếm lời. Đến cuối ngày nếu bà Q và bà L còn ít thẻ thì sẽ giữ lại để hôm sau mua bán với khách chơi tiếp, nếu có nhiều thẻ điểm thì Ph sẽ thu lại số thẻ và tính bằng giá trị thẻ Ph đã bán ra cho khách. Nếu bà L và Q không còn thẻ để bán cho khách thì Ph sẽ bán thẻ cho cả hai với giá bằng 95% giá bán cho khách nhằm để bà L và Q kiếm lời. Số điểm Ph thu lại từ bà Q và L được qui đổi sang một số đồ dùng có giá trị tương đương như bia, gạo, nước ngọt... với số lượng không giới hạn. L và Ph quy ước giá trị đổi là 01 điểm tích lũy bằng 1.000 đồng giá trị đồ vật đổi. Bà Q và bà L lấy bia hoặc những đồ dùng khác sau đó lại bán ra thị trường để lấy tiền. Ph mua bia và nhiều đồ dùng từ siêu thị để đổi thẻ điểm cho bà Q, bà L và 01 số ít khách có nhu cầu đổi đồ dùng để sử dụng. L cho bà Q và bà L thực hiện việc mua lại thẻ điểm cho khách chơi trong một thời gian dài dần trở thành quy luật và việc bà Q, bà L mua lại thẻ của khách chơi giúp thu hút khách cho tiệm game vì đa số người chơi đều bán lại điểm thắng được để lấy tiền.

Tùy từng máy mà số tiền tương đương với số điểm dùng để chơi trong máy khác nhau (ví dụ 1.000 đồng = 10 điểm, hoặc 1.000 đồng = 100 điểm). Sòng bạc trên bắt đầu mở cửa từ 08 giờ sáng đến 21 giờ cùng ngày, mỗi ngày sòng bạc có từ 10 đến 20 con bạc đến tham gia chơi nhưng trung bình có khoảng từ 07 đến 08 con bạc tham gia chơi cùng lúc. Mỗi người chơi mua điểm để chơi ít nhất là 10.000 đồng và cao nhất là 500.000 đồng.

Thời gian trước khách chơi với mức độ thắng thua nhỏ, chủ yếu là những người ở khu vực gần tiệm game đến chơi và đổi đồ dùng khi thắng được. Tuy nhiên, từ khoảng tháng 8 năm 2019 do Luân đổi chương trình của máy số 01 (tính từ cửa vào) từ bắn cá chép sang bắn chim và có bà Q và bà L đến đổi thẻ điểm thành tiền nên có nhiều người đến chơi hơn và mức độ thắng thua cũng lớn hơn. Từ thời điểm đó, mỗi ngày cơ sở này bơm cho khách chơi khoảng từ 15.000 điểm đến 40.000 điểm tích lũy tương ứng với 15.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng. Nếu ngày nào khách thắng nhiều thì số điểm rút ra lớn hơn số điểm bơm vào thì cơ sở sẽ bị lỗ, tuy nhiên số ngày lời nhiều hơn ngày lỗ. Trung bình mỗi ngày cơ sở lời hoặc lỗ khoảng 6.000.000 đồng.

Cụ thể, việc tổ chức đánh bạc và vai trò của từng người như sau:

Đối với Đỗ Hoàng L L bắt đầu thực hiện việc tổ chức đánh bạc dưới hình thức kinh doanh trò chơi điện tử máy bắn cá từ cuối tháng 10 năm 2014. Ban đầu cơ sở chỉ có 02 máy trò chơi điện tử. Với 02 máy trên việc kinh doanh có mang lại lợi nhuận, tuy nhiên lợi nhuận không nhiều. Mỗi ngày chỉ có khoảng 10 người đến tham gia chơi, số người chơi cùng một lượt chỉ khoảng 03 đến 04 người, mỗi người chơi bơm điểm thấp nhất là 10.000 đồng và cao nhất là 100.000 đồng, tổng số tiền dùng để đánh bạc mỗi ngày khoảng 1.000.000 đồng. Đến đầu năm 2019, Luân mua thêm 02 máy trò chơi điện tử, với 04 máy việc kinh doanh thu lợi nhuận nhiều hơn trước, mỗi ngày có khoảng 10 đến 20 con bạc tham gia đánh bạc, số người chơi cùng một lượt khoảng 07 đến 08 người, mỗi người chơi bơm điểm thấp nhất là 10.000 đồng và cao nhất là 200.000 đồng, tổng số tiền người chơi dùng để đánh bạc mỗi ngày trung bình từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng, cơ sở hoạt động có ngày lời ngày lỗ. Từ đầu năm 2019 đến tháng 8/2019, L và Ph thu lợi khoảng 35.000.000 đồng. Từ tháng 8/2019, L đổi chương trình của máy số 01 (tính từ cửa vào) từ bắn cá mức độ thắng thua nhỏ sang bắn chim với mức độ thắng thua lớn. Mỗi ngày có khoảng từ 10 đến 20 người đến tham gia đánh bạc, số người chơi cùng một lượt khoảng 07 đến 08 người tùy vào thời điểm trong ngày. Mỗi lần người chơi bơm điểm út nhất là 10.000 đồng và cao nhất là 500.000 đồng, tổng số tiền người chơi dùng để đánh bạc mỗi ngày dao động trong khoảng từ 15.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng, cơ sở hoạt động có ngày lời ngày lỗ. Từ tháng 8/2019 đến khi bị bắt quả tang, sau khi trừ các chi chí, L và Ph thu lợi được khoảng 50.000.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền thu lợi từ việc đánh bạc là 85.000.000 đồng.

Ngày 24/10/2019, L đưa cho L một thẻ từ 1.000.000 đồng và số thẻ điểm khoảng 7.000 điểm tương đương 7.000.000 đồng để bơm bán cho người chơi. Đến khoảng 16 giờ 30 cùng ngày, tiệm game bị bắt quả tang, trong đó có 13 người tham gia đánh bạc trên các máy trò chơi điện tử gồm: Danh S, Trần Thị T, Trần Vũ H, Nguyễn Thanh T, Trần Thị Minh Th, Tạ Hiếu T, Dương Văn Q, Trần Quang Kh, Dương Văn Đ, Trần Minh Q, Nguyễn Thị Ngọc N và Nguyễn Thái Ng, người chơi thấp nhất là 10.000 đồng và cao nhất là 500.000 đồng. Tổng số tiền dùng để đánh bạc gồm tiền mặt và số thẻ điểm quy đổi tương đương thành tiền ngày 24/10/2019 là 29.920.000 đồng. (bút lục số 302 – 313) Đối với Dương Thị Kim Ph Ph và L là vợ chồng và là người trực tiếp quản lý tiền, đi siêu thị mua hàng hóa về đổi điểm và tính toán chi phí của việc tổ chức đánh bạc. Hằng ngày, Ph ở tiệm game vừa quản lý vừa đổi hàng hóa cho bà Q, bà L và một số người chơi khác. Ngày 23/10/2019, Ph nhận của bà Q 17.000 điểm tương đương 17.000.000 đồng và Ph đổi cho Q 40 thùng bia nhãn hiệu Tiger với giá trị là 12.400.000 đồng, số điểm còn dư lại sẽ để cộng vào lần đổi sau. Đến khoảng 16 giờ 30 ngày 24/10/2019, khi đang quản lý tiệm, Ph bị Công an thành phố RG bắt quả tang, không thu giữ tài sản gì của Ph. (bút lục số 326 – 339) Đối với Dương Thị Kim L L là chị ruột của Ph và được Ph thuê để phụ giúp việc quản lý tiệm game, bán thẻ điểm, bơm rút điểm và đổi thẻ tại tiệm game từ đầu năm 2019. L và em ruột là Dương Thị Kim L thay nhau mỗi người làm cho L 01 ngày, mỗi ngày L được trả công 300.000 đồng. Hằng ngày, L đưa cho L 1.000.000 đồng và số thẻ điểm từ 1.000 đến 10.000 tương đương 1.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng để bán cho người đánh bạc. Vào ngày 24/10/2019, L đưa cho L 01 thẻ từ 1.000.000 đồng và số thẻ điểm khoảng 7.000 điểm tương đương 7.000.000 đồng bơm bán cho khách. Đến khoảng 16 giờ 30 ngày 24/10/2019, L bị Công an thành phố RG bắt quả tang, thu giữ trên người L 03 thẻ loại 200 điểm, 03 thẻ 100 điểm, 02 thẻ 50 điểm và thu giữ bên trong tủ nhôm của quầy bán thẻ 2.650.000 đồng, 05 thẻ 50 điểm, 01 thẻ 100 điểm, 05 thẻ 200 điểm và 04 thẻ 500 điểm (số thẻ điểm tương đương 4.350.000 đồng). Số tiền và thẻ điểm trên là do L bơm điểm, bán thẻ điểm cho con bạc có được trong ngày. L làm thuê cho L tại tiệm game bắn cá được 09 tháng và nhận lương tổng cộng 40.500.000 đồng. (bút lục số: 350 – 357) Đối với Dương Thị Kim L L là chị ruột của Ph và được Ph thuê để phụ giúp việc quản lý, bán thẻ điểm, bơm, rút điểm và đổi thẻ tại tiệm bắn cá từ đầu năm 2018. Đến đầu năm 2019, L và L thay nhau mỗi người làm cho L 01 ngày L được trả công 300.000 đồng. Hằng ngày, L đưa cho L 1.000.000 đồng và số thẻ điểm từ 1.000 đến 10.000 tương đương 1.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng để bán cho người đánh bạc. Vào ngày 24/10/2019, do được nghỉ nên L không bị Cơ quan công an bắt quả tang. Từ khi bắt đầu làm thuê cho L đến khi tiệm game bị bắt quả tang, L đã được L trả lương tổng cộng 76.500.000 đồng. (bút lục số: 360 – 367) Đối với Võ Kim Q Q đến chơi tiệm game bắn cá của L được khoảng 09 tháng đến ngày bị bắt quả tang. Thời gian đầu do tiệm ít người chơi số lượng thẻ không nhiều nên Q chủ yếu mua lại thẻ điểm của người khác để chơi game. Đến đầu tháng 8 năm 2019, do L đổi chương trình máy số 01 thành bắn chim ăn thua lớn nên số điểm thắng thua mỗi ngày rất lớn. Từ thời điểm này mục đích chủ yếu của Q đến tiệm game là để đổi thẻ điểm thành tiền cho các con bạc chơi để kiếm lời. Q đổi điểm cho người chơi với số điểm trung bình mỗi ngày tương đương số tiền khoảng 6.000.000 đồng. Số điểm mua được chủ yếu là để đổi hàng hóa lại với Ph chứ con bạc phần lớn sẽ dùng tiền đưa cho chủ tiệm để bơm điểm trực tiếp vào máy chơi cho nhanh chứ ít khi mua thẻ rồi mới bơm điểm.

Cụ thể vào ngày 23/10/2019, bà Q đưa cho Ph 17.000 điểm tương đương 17.000.000 đồng và Ph đổi cho Q 40 thùng bia nhãn hiệu Tiger với giá trị là 12.400.000 đồng, số điểm còn dư lại sẽ để cộng vào lần đổi sau. Cứ khoảng 03 ngày thì bà Q lấy thẻ điểm đổi quà (chủ yếu là bia lon) với Ph 01 lần, mỗi lần đổi khoảng 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng tiền thẻ, Q lấy bia đổi được từ Ph rồi bán ra bên ngoài để lấy tiền. Vào ngày 24/10/2019, Q đến tiệm game như những ngày trước và mang theo số tiền khoảng 2.000.000 đồng để mua bán thẻ điểm với khách, khi mới đến do tiệm game chưa có nhiều người chơi nên Q nhiều lần bơm điểm vào máy để chơi với tổng số tiền khoảng 1.500.000 đồng và đến lúc nghỉ thì thắng được khoảng 1.800.000 đồng. Đến trưa cùng ngày, Q lấy thêm 4.000.000 đồng nữa để thực hiện việc mua bán thẻ cho các con bạc. Đến lúc bị bắt quả tang thu giữ trên người của Q số tiền 6.250.000 đồng, 03 thẻ điểm 100, 02 thẻ điểm 200 (tương đương số tiền 700.000 đồng). Đây là số tiền và thẻ điểm mà Q mua bán thẻ với khách có được trong ngày. Từ khi đến tiệm game của L thực hiện việc đổi và bán thẻ điểm, Q đã thu lợi được số tiền khoảng 36.000.000 đồng. (bút lục số: 376 – 382) Đối với Nguyễn Thị L L đến chơi tại tiệm game bắn cá của L được khoảng 05 tháng đến ngày bị bắt quả tang. Thời gian đầu L chỉ là khách chơi game, đến đầu tháng 9 năm 2019, do thấy khách đến chơi đông và bà Q đổi thẻ cho người chơi game có lời nên L mới bắt đầu việc đổi thẻ điểm để lấy tiền lời. Tuy nhiên do L chủ yếu đổi điểm của người chơi ở 02 máy phía trong nên số lượng thẻ điểm mỗi ngày không nhiều, do đó chủ yếu bán lại cho con bạc, nếu bán không hết thì mang về nhà hôm sau bán tiếp chứ ít khi đổi quà lại với L. Nếu L có đổi quà thì mỗi lần cao nhất chỉ khoảng 1.200 điểm tương tương với số tiền 1.200.000 đồng. Nếu L không còn thẻ để bán cho con bạc thì L sẽ bán thẻ điểm cho bà L với giá chỉ bằng 95% giá trị thẻ điểm để bà L bán lại kiếm lời.

Vào ngày 24/10/2019, L đến tiệm game bắn cá như những ngày trước đó và mang theo số tiền 2.000.000 đồng cùng 10 thẻ 200 (tổng 2.000 điểm). L thực hiện việc mua bán thẻ điểm với người chơi game đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Cơ quan công an bắt quả tang, thu giữ trên người L 04 thẻ 50 điểm, 03 thẻ 100 điểm và 19 thẻ 200 điểm (tương đương số tiền 4.300.000 đồng). L đã dùng hết số tiền mang theo để mua lại thẻ điểm của con bạc. Từ khi đến tiệm game của L thực hiện việc đổi và bán thẻ điểm, L đã thu lợi được số tiền khoảng 18.000.000 đồng. (bút lục số: 392 – 401) Những người tham gia đánh bạc tại cơ sở Liêm Lam bị bắt quả tang, bao gồm:

Danh S: Vào khoảng 14 giờ ngày 24/10/2019, S đến tiệm game Liêm Lâm mua điểm bơm vào máy số 01 (máy bắn chim) 03 lần với tổng số tiền 1.500.000 đồng. S chơi đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Cơ quan công an bắt quả tang, thu giữ trên người S 03 thẻ điểm loại 500 điểm (tương đương số tiền 1.500.000 đồng).

Ngày 20/5/2019, Danh S đã bị Tòa án nhân dân thành phố RG xử phạt về tội Đánh bạc, được hoãn thi hành án. Trong thời gian được hoãn thi hành án, sang tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc trong vụ án khác. Với số tiền đánh bạc chưa đủ để chịu trách nhiệm hình sự nhưng do có 01 tiền án chưa chấp hành nên ngày 19/3/2020, Danh S đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố RG ra Quyết định khởi tố bị can về tội Đánh bạc. (bút lục số: 222 – 224) Hà Danh Đ: Vào khoảng 14 giờ ngày 24/10/2019, Được đến tiệm game Liêm Lâm dùng 500.000 đồng mua điểm bơm vào máy số 01 để chơi. Được chới đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày thì Cơ quan công an bắt quả tang, thu giữ trên người Được 02 thẻ điểm loại 500 điểm (tương đương số tiền 1.000.000 đồng). Được tham gia đánh bạc tại đây được khoảng 06 tháng, có ngày thắng ngày thu không nhớ cụ thể. (bít lục số 226, 227) Trần Thị T: Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 24/10/2019, T đến tiệm game Liêm Lâm dùng 100.000 đồng mua điểm bơm vào máy chơi đặt thú ở máy số 02 (máy tháp), khi đang chơi chưa tính thắng thua thì bị Công an bắt quả tang. T đã tham gia chơi đánh bạc tại đây từ tháng 6/2019, có ngày thắng, ngày thua không nhớ cụ thể. (bút lục số 230, 231) Trần Vũ H: Vào khoảng 16 giờ ngày 24/10/2019, H đến tiệm game Liêm Lâm dùng 100.000 đồng mua điểm bơm vào chơi ở máy số 03 (định vị). H chơi được khoảng 30 phút thì bị Công an đến bắt quả tang. H đã tham đánh bạc tại đây được khoảng 02 tháng có ngày thắng, ngày thua không nhớ cụ thể. (bút lục số 234, 235) Nguyễn Thanh T: Vào khoảng 12 giờ ngày 24/10/2019, T đến tiệm game Liêm Lâm dùng 130.000 đồng mua điểm bơm vào chơi ở máy số 04 (đặt thú). Do chơi thua hết điểm nên đứng xem đến lúc bị bắt quả tang. T đã tham gia chơi đánh bạc tại đây được 03 ngày đều thua. (bút lục số 238, 239) Trần Thị Minh Th: Vào khoảng 13 giờ 15 phút ngày 24/10/2019, Th đến tiệm game Liêm Lâm dùng 100.000 đồng mua điểm bơm vào chơi ở máy số 04 (bắn cá chép) thắng được 250.000 đồng thì nghỉ. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày Th tiếp tục dùng 270.000 đồng bơm điểm vào máy số 04 (bắn cá chép), khi đang chơi chưa tính thắng thua thì bị Công an bắt quả tang. Th đã chơi đánh bạc tại đây được khoảng 04 tháng, có ngày thắng, ngày thua không nhớ cụ thể. (bút lục số: 242, 243) Tạ Hiếu T: Vào khoảng 14 giờ ngày 24/10/2019, T đến tiệm game Liêm Lâm dùng 10.000 đồng mua điểm bơm vào máy số 02 (đặt thú) để chơi. Khi đang chơi chưa tính thắng thua thì bị Công an bắt quả tang. (bút lục số: 246, 247) Dương Văn Q: Vào khoảng 15 giờ ngày 24/10/2019, Q đến tiệm game Liêm Lâm dùng 200.000 đồng mua điểm bơm vào máy số 04 để chơi. Khi đang chơi chưa tính thắng thua thì bị Công an bắt quả tang. Ngoài lần đánh bạc bị bắt quả tang thì Quốc đã chơi đánh bạc tại đây 02 lần, tất cả đều thua. (bút lục số: 252, 253) Trần Quang Kh: Vào khoảng 15 giờ ngày 24/10/2019, Kh đến tiệm game Liêm Lâm dùng 50.000 đồng mua điểm bơm vào máy số 02 chơi được khoảng 30 phút thì thua hết nên ngồi xem đến lúc bị bắt quả tang. Kh đã chơi đánh bạc tại đây được khoảng 01 tháng, có thắng có thua không nhớ cụ thể. (bút lục số: 256) Dương Văn Đ: Vào khoảng 16 giờ 20 ngày 24/10/2019, Đ đến sòng bạc dùng 100.000 đồng mua điểm bơm vào máy số 04, chơi được khoảng 10 phút khi đang chơi chưa tính thắng thua thì bị Công an bắt quả tang. (bút lục số: 258, 259) Trần Minh Q: Khoảng 15 giờ 30 phút, Q đến sòng bạc mang theo 300.000 đồng để đánh bạc. Q dùng 100.000 đồng mua điểm bơm điểm vào máy số 04 để chơi. Chưa tính thắng thua thì bị Công an bắt quả tang. Q đã chơi đánh bạc tại đây được khoảng 02 tháng, có thắng có thua không nhớ cụ thể. (bút lục số: 260, 261) Nguyễn Thị Ngọc N: Đến sòng bạc và dùng 50.000 đồng bơm vào máy số 02 để chơi, do chơi thua hết điểm nên ở tiệm để xem đến lúc bị bắt quả tang. N đã chơi đánh bạc tại đây được khoảng 06 tháng có thắng có thua không nhớ cụ thể. (bút lục số: 264, 265) Nguyễn Ngọc Th: Khoảng 13 giờ đến sòng bạc và mang theo 2.000.000 đồng để chơi đánh bạc. Th dùng 500.000 đồng bơm điểm vào máy số 01 để chơi. Khi đang chơi chưa tính thắng thua thì bị Công an bắt quả tang. (bút lục: 268, 269).

Ngày 03/01/2020, Đỗ Hoàng L, Dương Thị Kim Ph, Dương Thị Kim L, Dương Thị Kim L, Võ Kim Q và Nguyễn Thị L bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố RG khởi tố, để điều tra. Đến ngày 14/7/2020, Võ Kim Q bị bệnh chết nên Viện Kiểm sát nhân dân thành phố RG ra Quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can Võ Kim Q theo Quyết định số 05, ngày 15/7/2020.

Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Đỗ Hoàng L, Dương Thị Kim Ph, Dương Thị Kim L, Dương Thị Kim L và Nguyễn Thị L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, những người làm chứng đều thống nhất với nội dung sự việc như đã nêu trên.

* Việc thu giữ tài liệu, đồ vật:

- Thu giữ tại tiệm game khi bắt quả tang:

+ 04 (bốn) máy trò chơi điện tử các loại (máy bắn cá) + 04 (bốn) chìa khóa để mở máy game.

+ 01 (một) đầu ghi dùng để lưu dữ liệu Camera.

+ 01 (một) thẻ từ màu đen.

+ 04 (bốn) rổ nhựa.

+ 100 thẻ điểm 50; 53 thẻ điểm 100; 198 thẻ điểm 200 và 189 thẻ điểm 500.

+ 02 (hai) quyển tập học sinh đã qua sử dụng (kèm theo hồ sơ vụ án).

+ Tiền Việt Nam 10.300.000 đồng (trong đó thu tại bàn bán thẻ điểm là 2.650.000 đồng, thu tại phòng ngủ của L là 7.650.000 đồng).

- Thu giữ đồ vật trên người của nhóm tổ chức và tham gia đánh bạc:

+ Đỗ Hoàng L: tiền Việt Nam 4.420.000 đồng; 01 (một) thẻ từ màu đen; 01 (một) điện thoại Iphone màu vàng đã qua sử dụng; 06 thẻ điểm 200; 02 thẻ điểm 100; 01 thẻ điểm 50.

+ Nguyễn Thị L: 04 thẻ điểm 50; 03 thẻ điểm 100; 19 thẻ điểm 200.

+ Dương Thị Kim L: 03 thẻ điểm 200; 03 thẻ điểm 100; 02 thẻ điểm 50; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu hồng, mode A1778FCCID: BCG-E3091A, đã qua sử dụng.

+ Trần Vũ H: tiền Việt Nam 300.000 đồng; 01 điện thoại nhãn hiệu Philips màu đen, Imei 863544039463525 đã qua sử dụng.

+ Nguyễn Ngọc Th: tiền Việt Nam 1.500.000 đồng; 01 thẻ điểm 500.

+ Nguyễn Thị Ngọc N: tiền Việt Nam 23.000 đồng.

+ Trần Minh Q: tiền Việt Nam 200.000 đồng; 01 (một) điện thoại Samsung màu trắng, Imei A3LGTS7580; 01 (một) điện thoại Mobistar màu vàng, Imei 35224812045/686 đã qua sử dụng;

+ Trần Thị Minh Th: 01 (một) điện thoại Samsung màu vàng, màn hình kín bị hư hỏng, Seri R58J72K9FYW đã qua sử dụng.

+ Danh S: tiền Việt Nam 4.560.000 đồng; 03 thẻ điểm 500; một điện thoại nhãn hiệu Masstel mà xanh, bị khóa màn hình, Imei 865925031540935; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen, Imei 869347030639194 đã qua sử dụng.

+ Tạ Hiếu T: tiền Việt Nam 110.000 đồng, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng, sô Imei 358808058876172, đã qua sử dụng.

+ Hà Danh Đ: tiền Việt Nam 5.500.000 đồng; 02 thẻ điểm 500.

+ Trần Quang Kh: 01 (một) điện thoại Nokia màu đen, Imei 359014092276458, đã qua sử dụng.

+ Dương Văn Q: tiền Việt Nam 700.000 đồng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar màu đen, đã qua sử dụng.

+ Dương Văn Đ: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, số Imei 356004085412163 đã qua sử dụng.

+ Võ Kim Q: tiền Việt Nam 6.250.000 đồng ; 01 (một) điện thoại Nokia màu đen đã qua sử dụng, 03 thẻ điểm 100; 02 thẻ điểm 200.

(Bút lục số 123, 124) + Tiền Việt Nam 45.000.000 đồng do Nguyễn Thị Kim Ph tự nguyện giao nộp tiền thu lợi bất chính từ việc tổ chức đánh bạc. (bút lục số 166) + 55 (năm mươi lăm) thùng bia lon, trong đó 45 thùng nhãn hiệu Tiger, 10 thùng nhãn hiệu Heniken (thu giữ tại nhà của bà Võ Kim Q, bút lục số 165) * Xử lý vật chứng trong giai đoạn điều tra: Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố RG đã trả lại cho các bị cáo và những người khác các tài sản không liên quan đến việc phạm tội, bao gồm:

+ Đỗ Hoàng L: tiền Việt Nam 7.650.000 đồng; 01 (một) thẻ từ màu đen; 01 (một) điện thoại Iphone màu vàng đã qua sử dụng;

+ Dương Thị Kim L: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu hồng, mode A1778FCCID: BCG-E3091A, đã qua sử dụng.

+ Trần Vũ H: 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Philips màu đen, Imei 863544039463525 đã qua sử dụng.

+ Nguyễn Thị Ngọc N: tiền Việt Nam 23.000 đồng.

+ Trần Thị Minh Th: 01 (một) điện thoại Samsung màu vàng, màn hình kín bị hư hỏng, Seri R58J72K9FYW đã qua sử dụng.

+ Danh S: tiền Việt Nam 4.560.000 đồng; 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Masstel mà xanh, bị khóa màn hình, Imei 865925031540935; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen, Imei 869347030639194 đã qua sử dụng.

+ Tạ Hiếu T: tiền Việt Nam 110.000 đồng, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng, sô Imei 358808058876172, đã qua sử dụng.

+ Hà Danh Đ: tiền Việt Nam 5.500.000 đồng.

+ Trần Quang Kh: 01 (một) điện thoại Nokia màu đen, Imei 359014092276458, đã qua sử dụng.

+ Dương Văn Q: tiền Việt Nam 700.000 đồng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar màu đen, đã qua sử dụng.

+ Dương Văn Đ: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, số Imei 356004085412163 đã qua sử dụng.

+ Võ Kim Q: 01 (một) điện thoại Nokia màu đen đã qua sử dụng, 03 thẻ điểm 100;

02 thẻ điểm 200.

(bút lục số: 167 – 171) - Tại bản kết luận định giá tài sản số: 10/KL-HĐĐG, ngày 22/01/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố RG kết luận như sau:

- 45 (bốn mươi lăm) thùng bia nhãn hiệu Tiger, loại 24 lon/thùng, có giá trị 14.445.000 đồng.

- 10 (mười) thùng bia nhãn hiệu Heineken, loại 24 lon/thùng, có giá trị là 3.840.000 đồng.

Tổng cộng là 18.285.000 đồng (mười tám triệu, hai trăm tám mươi lăm nghìn đồng).

Tại bản cáo trạng số 146/CT-VKSRG, ngày 15 tháng 7 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố RG, tỉnh Kiên Giang đã truy tố các bị cáo Đỗ Hoàng L, Dương Thị Kim Ph, Dương Thị Kim L, Dương Thị Kim L về tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 322 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; bị cáo Nguyễn Thị L về tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố RG, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với các bị cáo Đỗ Hoàng L, Dương Thị Kim Ph, Nguyễn Thị L; riêng đối với các bị cáo Dương Thị Kim L và Dương Thị Kim L thì đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố RG, tỉnh Kiên Giang đề nghị rút một phần quyết định truy tố về việc áp dụng tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm b khoản 2 Điều 322 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố RG, tỉnh Kiên Giang đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 322, điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 54, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Đỗ Hoàng L mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù; áp dụng điểm b khoản 2 Điều 322, điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 54, Điều 58, Điều 35 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Dương Thị Kim Ph số tiền 100.000.000 đồng; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322, điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, khoản 3 Điều 54, Điều 58, Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Dương Thị Kim L 02 năm cải tạo không giam giữ, miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo, xử phạt bị cáo Dương Thị Kim L 02 năm cải tạo không giam giữ, miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L 01 năm 06 tháng cải tạo không giam giữ, miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên:

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước tiền và tài sản dùng vào việc phạm tội, bao gồm:

+ 01 (một) điện thoại Samsung màu trắng, Imei A3LGTS7580 đã qua sử dụng.

+ 01 (một) điện thoại Mobistar màu vàng, Imei 35224812045/686 đã qua sử dụng.

+ 55 (năm mươi lăm) thùng bia lon, trong đó 45 thùng nhãn hiệu Tiger, 10 thùng nhãn hiệu Heineken.

+ Tiền Việt Nam 60.320.000 đồng (sáu mươi triệu, ba trăm hai mươi nghìn đồng), trong đó 15.320.000 đồng là tiền dùng vào việc đánh bạc, 45.000.000 đồng do Nguyễn Thị Kim Ph tự nguyện giao nộp tiền thu lợi từ việc tổ chức đánh bạc, theo giấy nộp tiền vào Kho bạc Nhà nước Kiên Giang ngày 28/4/2020.

- Tịch thu tiêu hủy công cụ dùng vào việc phạm tội, bao gồm:

+ 04 (bốn) máy trò chơi điện tử các loại (máy bắn cá) + 04 (bốn) chìa khóa để mở máy game.

+ 02 (hai) thẻ từ màu đen.

+ 04 (bốn) rổ nhựa.

+ 594 thẻ điểm được làm bằng nhựa cứng.

- Trả lại cho bị cáo Đỗ Hoàng L tài sản không liên quan đến vụ án: 01 (một) đầu ghi dùng để lưu dữ liệu Camera.

(Theo các Lệnh nhập kho vật chứng số: 16/LNK, ngày 21/01/2020 và số: 67/LNK, ngày 28/4/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố RG).

- Buộc 02 bị cáo Đỗ Hoàng L và Dương Thị Kim Ph giao nộp 9.000.000 đồng, bị cáo Nguyễn Thị L giao nộp 18.000.000 đồng, do đây là số tiền các bị cáo thu lợi bất chính mà có.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo L, Ph xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt, các bị cáo L, L, L không có ý kiến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố RG, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố RG, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, các bị cáo, người làm chứng đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo và những chứng cứ xác định có tội:

Do muốn có thu lợi nhanh nên từ cuối tháng 10 năm 2014, Đỗ Hoàng L đã mua sắm các máy trò chơi điện tử, trang thiết bị để tổ chức đánh bạc tại nhà riêng ở địa chỉ 334/4 Nguyễn Trung Tr, phường VL, thành phố RG và lấy tên cơ sở là “Liêm Lâm”. L và vợ là Dương Thị Kim Ph thay nhau quản lý tiệm game và Ph thuê hai chị ruột của mình là Dương Thị Kim L và Dương Thị Kim L thay nhau phụ giúp việc bán thẻ, bơm rút điểm với mức lương là 4.500.000 đồng/tháng. Tại cơ sở của L và Ph thì còn có Võ Kim Q và Nguyễn Thị L, hai người này sẽ mua lại điểm của người chơi với giá tiền bằng 95% giá trị số điểm (nghĩa là nếu thẻ tích lũy 100 điểm sẽ mua 95.000 đồng) sau đó dùng số thẻ điểm mua được bán lại cho những khách chơi có nhu cầu với giá bằng với giá cơ sở bán cho khách (nghĩa là 01 điểm = 1.000 đồng) để kiếm lời. Phương thức Hoạt động là người chơi phải dùng tiền mặt để mua điểm thông qua các thẻ điểm (tại tiệm game có 04 loại thẻ điểm là 50, 100, 200 và 500 tương đương với giá tiền người chơi mua là 50.000 đồng, 100.000 đồng, 200.000 đồng và 500.000 đồng) hoặc mua trực tiếp không thông qua thẻ điểm. Sau đó, người chơi đưa thẻ điểm cho nhân viên, nhân viên sẽ dùng thẻ từ nạp điểm vào máy và người chơi sử dụng điểm đó để đánh bạc trên máy điện tử. Nếu người chơi thắng thì L hoặc L sẽ rút điểm ra thành thẻ điểm, sau đó người chơi đem thẻ điểm đến gặp Q và L đổi thành tiền. Đến cuối ngày nếu Q và L còn ít thẻ thì sẽ giữ lại để hôm sau mua bán với khách chơi tiếp, nếu có nhiều thẻ điểm thì Ph sẽ thu lại số thẻ và tính bằng giá trị thẻ Ph đã bán ra cho khách. Nếu Q và L không còn thẻ để bán cho khách thì Ph sẽ bán thẻ cho cả hai với giá bằng 95% giá bán cho khách nhằm để Q và L kiếm lời. Số điểm Ph thu lại từ Q và L được quy đổi sang một số đồ dùng có giá trị tương đương như bia, gạo, nước ngọt… với số lượng không giới hạn. L và Ph quy ước giá trị đổi là 01 điểm tích lũy bằng 1.000 đồng giá trị đồ vật đổi. Q và L lấy bia hoặc những đồ dùng khác sau đó lại bán ra thị trường để lấy tiền. Ph mua bia và nhiều đồ dùng từ các siêu thị để đổi thẻ điểm cho Q, L và một số ít khách có nhu cầu đổi đồ dùng để sử dụng. L cho Q và L thực hiện việc mua lại thẻ điểm cho khách chơi trong một thời gian dài dần trở thành quy luật và việc Q, L mua lại thẻ của khách chơi giúp thu hút khách cho tiệm game vì đa số người chơi đều bán lại điểm thắng được để lấy tiền.

Sòng bạc trên bắt đầu mở cửa từ 08 giờ sáng đến 21 giờ hằng ngày, mỗi ngày sòng bạc có từ 10 đến 20 người đến tham gia chơi nhưng trung bình có khoảng từ 07 đến 08 người tham gia chơi cùng lúc. Mỗi người chơi mua điểm để chơi ít nhất là 10.000 đồng và cao nhất là 500.000 đồng. Thời gian trước khách chơi với mức độ thắng thua nhỏ, chủ yếu là những người ở khu vực gần tiệm game đến chơi và đổi đồ dùng khi thắng được. Tuy nhiên, từ khoảng tháng 8 năm 2019 do L đổi chương trình của máy số 01 (tính từ cửa vào) từ bắn cá chép sang bắn chim nên có nhiều người đến chơi hơn và mức độ thắng thua cũng lớn hơn. Từ thời điểm đó, mỗi ngày cơ sở này bơm cho khách chơi khoảng từ 15.000 điểm đến 40.000 điểm tích lũy tương ứng với 15.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng. Nếu ngày nào khách thắng nhiều thì số điểm rút ra lớn hơn số điểm bơm vào nên cơ sở sẽ bị lỗ, tuy nhiên thì số ngày lời nhiều hơn ngày lỗ. Trung bình mỗi ngày cơ sở lời hoặc lỗ khoảng 6.000.000 đồng. Từ tháng 8 năm 2019 đến khi bị bắt quả tang, sau khi trừ các chi phí, Luân và Phượng lời được khoảng 85.000.000 đồng.

Từ khi đến tiệm game của L thực hiện việc đổi và bán thẻ điểm, Q thu lợi bất chính với số tiền khoảng 36.000.000 đồng, L thu lợi bất chính với số tiền khoảng 18.000.000 đồng.

Ngày 24/10/2019, L đưa cho L 01 thẻ từ, 1.000.000 đồng và số thẻ điểm khoảng 7.000 điểm tương đương 7.000.000 đồng bơm bán cho người chơi. Đến khoảng 16 giờ 30 phát cùng ngày, tiệm game bị bắt quả tang, trong đó có 13 người tham gia đánh bạc trên các máy trò chơi điện tử gồm: Danh S, Trần Thị T, Trần Vũ H, Nguyễn Thanh T, Trần Thị Minh Th, Tạ Hiếu T, Dương Văn Q, Trần Quang Kh, Dương Văn Đ, Trần Minh Q, Nguyễn Thị Ngọc N và Nguyễn Ngọc Th, người chơi thấp nhất là 10.000 đồng và cao nhất là 500.000 đồng. Tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc trong ngày 24/10/2019 là 29.920.000 đồng.

Ngày 03/01/2020 Đỗ Hoàng L, Dương Thị Kim Ph, Dương Thị Kim L, Dương Thị Kim L, Võ Kim Q và Nguyễn Thị L bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố RG khởi tố, để điều tra.

Đối với Danh S, ngày 20/5/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố RG xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Đánh bạc”, được hoãn thi hành án phạt tù. Trong thời gian được hoãn thi hành án, S tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc trong vụ án khác, với số tiền chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng do có 01 tiền án chưa chấp hành nên ngày 19/3/2020, Danh S đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố RG ra Quyết định khởi tố bị can về tội đánh bạc trong vụ án khác.

Đối với Trần Thị T, Trần Vũ H, Nguyễn Thanh T, Trần Thị Minh Th, Tạ Hiếu T, Dương Văn Q, Trần Quang Kh, Dương Văn Đ, Trần Minh Q, Nguyễn Thị Ngọc N và Nguyễn Ngọc Th: Những người này tuy có tham gia chơi game tại thời điểm bị bắt quả tang, tuy nhiên số tiền đánh bạc của từng người chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố RG đã chuyển hồ sơ để xử lý hành chính theo thẩm quyền.

Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ để Hội đồng xét xử kết luận các bị cáo Đỗ Hoàng L, Dương Thị Kim Ph về tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 322 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; bị cáo Nguyễn Thị L về tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như truy tố của Viện kiểm sát là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật. Riêng bị cáo Dương Thị Kim L và Dương Thị Kim L chỉ là những người làm công, thực hiện công việc theo sự phân công nhiệm vụ của L và Ph, cả 02 bị cáo đều không có thu lợi bất chính trong vụ án này nên không thể áp dụng “Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên” làm tình tiết định khung hình phạt theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 322 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với 02 bị cáo. Đồng thời tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị rút một phần quyết định truy tố đối với bị cáo L và L về việc áp dụng tình tiết định khung hình phạt nêu trên. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại Điều 325 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thống nhất chấp nhận đề nghị Kiểm sát viên.

[3] Xét về nhân thân, hành vi, động cơ, tính chất, mức độ và hậu quả trong việc phạm tội của các bị cáo: Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo đều có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đã nhận thức được pháp luật nước ta nghiêm cấm mọi hành vi tổ chức đánh bạc trái phép, nhưng do muốn có tiền để tiêu xài phục vụ cho nhu cầu cá nhân mà không cần phải lao động nên các bị cáo đã nảy sinh tư tưởng cầu may, hám lợi từ đồng tiền bất chính, từ đó các bị cáo bất chấp pháp luật, cùng lao vào con đường phạm tội.

Các bị cáo L, Ph, L, L và L cùng cố ý thực hiện hành vi phạm tội, có sự cấu kết chặt chẽ với nhau được thể hiện qua việc bàn bạc, phân công nhiệm vụ cụ thể, chuẩn bị phương tiện, công cụ phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp đồng phạm có tổ chức theo quy định tại khoản 2 Điều 17 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cụ thể vai trò của các bị cáo như sau:

Đối với bị cáo L: Bị cáo là người tạo điều kiện về địa điểm, chuẩn bị phương tiện, công cụ cho những người tham gia đánh bạc ăn thua trực tiếp bằng hiện vật có giá trị. Bị cáo trực tiếp điều hành tiệm game, cùng vợ là bị cáo Ph thay nhau quản lý tiệm game. Tính từ thời điểm tiệm game bắt đầu hoạt động cho đến khi bị bắt quả tang thì tổng tiền lời của tiệm game là 85.000.000 đồng, trong đó bị cáo và bị cáo Ph thu lợi bất chính từ hoạt động đổi thẻ điểm qua hiện vật có giá trị là 54.000.000 đồng. Bị cáo giữ vai trò cầm đầu trong vụ án này với hành vi tổ chức đánh bạc, do đó hình phạt đối với bị cáo phải nghiêm minh và cao hơn các bị cáo còn lại.

Đối với bị cáo Ph: Bị cáo và bị cáo L là vợ chồng và là người trực tiếp quản lý tiền, đi siêu thị muan hàng hóa về đổi thẻ điểm và tính toán chi phí trong hoạt động của tiệm game. Tính từ thời điểm tiệm game bắt đầu hoạt động cho đến khi bị bắt quả tang thì tổng tiền lời của tiệm game là 85.000.000 đồng, trong đó bị cáo và bị cáo L thu lợi bất chính từ hoạt động đổi thẻ điểm qua hiện vật có giá trị là 54.000.000 đồng. Do đó, vai trò của bị cáo và bị cáo L là ngang nhau, tuy nhiên cũng cần xem xét đến mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo thấp hơn sơ với bị cáo L do bị cáo không phải là người tạo ra điều kiện, công cụ, phương tiện ban đầu phục vụ cho hoạt động đánh bạc, vì vậy cần xem xét hình phạt của bị cáo thấp hơn so với bị cáo L.

Đối với các bị cáo L, L và L: 02 bị cáo L và L là chị ruột của bị cáo Ph, được thuê để phụ giúp việc quản lý tiệm game, bán thẻ điểm, bơm rút điểm và đổi thẻ, bị cáo L trả tiền công cho 02 bị cáo mỗi ngày 300.000 đồng, tính đến thời điểm tiệm game bị bắt quả tang thì L được trả lương tổng cộng 40.500.000 đồng, L được trả lương tổng cộng 76.500.000 đồng. Riêng bị cáo L ban đầu là khách đến chơi tại tiệm game của L, sau đó giữa bị cáo và bị cáo L thỏa thuận là bị cáo L sẽ tạo điều kiện cho bị cáo đổi thẻ điểm cho khách, nếu bị cáo không còn thẻ để bán cho khách đến chơi thì bị cáo L sẽ bán thẻ điểm cho bị cáo với giá chỉ bằng 95% giá trị thẻ điểm để bị cáo bán lại kiếm lời, đồng thời giữa bị cáo và bị cáo Ph còn thỏa thuận về việc đổi quà để thu lại thẻ bằng giá trị mua bán thực tế, tính đến thời điểm tiệm game bị bắt quả tang, bị cáo đã thu lợi bất chính với số tiền là 18.000.000 đồng. Do đó, vai trò của các bị cáo là ngang nhau, đều là đồng phạm giúp sức, tuy nhiên cũng cần xem xét đến tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của từng bị cáo khi lượng hình.

Như chúng ta đã biết cờ bạc là một trong các loại tệ nạn xã hội, từ việc đam mê cờ bạc mà nhiều người không lo làm ăn, lâm vào hoàn cảnh nợ nần, gia đình ly tán…, do đó pháp luật nước ta nghiêm cấm mọi hình thức tổ chức đánh bạc trái phép bằng tiền hoặc hiện vật có giá trị lớn. Nguy hiểm hơn là việc các bị cáo đã cùng nhau tụ tập đông người để đánh bạc ăn thua bằng hiện vật, từ đó làm tác động rất xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây xôn xao, bất bình trong quần chúng nhân dân, xâm phạm nghiêm trọng trật tự công cộng. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án nghiêm minh để răn đe, giáo dục các bị cáo, đồng thời cũng nhằm tuyên truyền, phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng do phạm tội 02 lần trở lên.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Tất cả các bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình, tự thú những lần phạm tội trước đó mà chưa bị phát hiện, có nhân thân tốt (được thể hiện bằng việc chưa có tiền án, tiền sự). Ngoài ra bị cáo L và Ph đã nộp phần lớn số tiền thu lợi bất chính, bị cáo L là người trên 70 tuổi. Nên cần thiết áp dụng các điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nêu trên khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo L, Ph, L và L; áp dụng các điểm o, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nêu trên khi quyết định hình phạt đối với bị cáo L.

Xét thấy các bị cáo L, L và L đều là những người có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra không lớn, nhận thức quy định pháp luật còn hạn chế, có nhiều tình tiết giảm nhẹ như đã viện dẫn, bên cạnh đó cũng nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước nên không cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà giao các bị cáo về cho chính quyền địa phương nơi các bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục nhằm tạo cơ hội cho các bị cáo tự cải tạo bản thân để trở thành một công dân tốt, sống có ích cho xã hội và biết tuân thủ pháp luật. Do đó Hội đồng xét xử quyết định áp dụng khoản 3 Điều 54 và Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thống nhất chuyển sang hình phạt khác nhẹ hơn, cụ thể là xử phạt các bị cáo với hình phạt cải tạo không giam giữ. Đối với bị cáo L và bị cáo Ph, cả 02 bị cáo đều giữ vai trò chính trong vụ án này, trong đó bị cáo L là người cầm đầu, bị cáo Ph vừa là người thực hành vừa là người giúp sức tích cực cho bị cáo L nên cần phải xử phạt nghiêm minh; tuy nhiên cũng cần xem xét việc 02 có nhiều tình tiết giảm nhẹ như đã viện dẫn, nhận thức quy định pháp luật còn hạn chế, hơn nữa 02 bị cáo là vợ chồng, đang nuôi con nhỏ, nếu áp dụng hình phạt tù cho cả 02 thì sẽ gây ảnh hưởng lớn đến hoàn cảnh gia đình nên trường hợp này cần nhận sự khoan hồng của Nhà nước, do đó Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với bị cáo L và bị cáo Ph, đồng thời xem xét hình phạt khác ngoài hình phạt tù cho bị cáo Ph nằm trong khung hình phạt được áp dụng.

[5] Về việc khấu trừ thu nhập: Các bị cáo L, L, L có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo L là người già yếu, mất sức lao động, nếu khấu trừ thu nhập của các bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của các bị cáo và gia đình. Do đó qua nghị án, Hội đồng xét xử thống nhất miễn việc khấu trừ thu nhập cho các bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên Hội đồng xét xử thống nhất không áp dụng.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố RG là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 322, điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 54, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Đỗ Hoàng L phạm tội: “Tổ chức đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Đỗ Hoàng L mức án 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án sau khi khấu trừ thời gian tạm giữ (từ ngày 24/10/2019 đến ngày 03/11/2019).

- Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 322, điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 54, Điều 58, Điều 35 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Dương Thị Kim Ph phạm tội: “Tổ chức đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Dương Thị Kim Ph số tiền 75.000.000 đồng (bảy mươi lăm triệu đồng).

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 322, điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, khoản 3 Điều 54, Điều 58, Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố các bị cáo Dương Thị Kim L, Dương Thị Kim L phạm tội: “Tổ chức đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Dương Thị Kim L 01 (một) năm cải tạo không giam giữ, giao bị cáo Dương Thị Kim L cho Ủy ban nhân dân phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang giám sát và giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời hạn được tính kể từ ngày cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Xử phạt bị cáo Dương Thị Kim L 01 (một) năm cải tạo không giam giữ, giao bị cáo Dương Thị Kim L cho Ủy ban nhân dân phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang giám sát và giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời hạn được tính kể từ ngày cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 322, điểm o, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, khoản 3 Điều 54, Điều 58, Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị L phạm tội: “Tổ chức đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L 01 (một) năm cải tạo không giam giữ, giao bị cáo Nguyễn Thị L cho Ủy ban nhân dân phường VL, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang giám sát và giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời hạn được tính kể từ ngày cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên:

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước tiền và tài sản dùng vào việc phạm tội, bao gồm:

+ 01 (một) điện thoại Samsung màu trắng, Imei A3LGTS7580 đã qua sử dụng.

+ 01 (một) điện thoại Mobistar màu vàng, Imei 35224812045/686 đã qua sử dụng.

+ 55 (năm mươi lăm) thùng bia lon, trong đó 45 thùng nhãn hiệu Tiger, 10 thùng nhãn hiệu Heineken.

+ Tiền Việt Nam 60.320.000 đồng (sáu mươi triệu, ba trăm hai mươi nghìn đồng), trong đó 15.320.000 đồng là tiền dùng vào việc đánh bạc, 45.000.000 đồng do Nguyễn Thị Kim Ph tự nguyện giao nộp tiền thu lợi từ việc tổ chức đánh bạc, theo giấy nộp tiền vào Kho bạc Nhà nước Kiên Giang ngày 28/4/2020.

- Tịch thu tiêu hủy công cụ dùng vào việc phạm tội, bao gồm:

+ 04 (bốn) máy trò chơi điện tử các loại (máy bắn cá) + 04 (bốn) chìa khóa để mở máy game.

+ 02 (hai) thẻ từ màu đen.

+ 04 (bốn) rổ nhựa.

+ 594 thẻ điểm được làm bằng nhựa cứng.

- Trả lại cho bị cáo Đỗ Hoàng L tài sản không liên quan đến vụ án: 01 (một) đầu ghi dùng để lưu dữ liệu Camera.

(Theo các Lệnh nhập kho vật chứng số: 16/LNK, ngày 21/01/2020 và số: 67/LNK, ngày 28/4/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố RG và Quyết định chuyển vật chứng số: 85/QĐ-VKS, ngày 15/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố RG).

- Buộc 02 bị cáo Đỗ Hoàng L và Dương Thị Kim Ph giao nộp 9.000.000 đồng, bị cáo Nguyễn Thị L giao nộp 18.000.000 đồng, do đây là số tiền các bị cáo thu lợi bất chính mà có.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (28/9/2020).

+ 594 thẻ điểm được làm bằng nhựa cứng.

- Trả lại cho bị cáo Đỗ Hoàng L tài sản không liên quan đến vụ án: 01 (một) đầu ghi dùng để lưu dữ liệu Camera.

(Theo các Lệnh nhập kho vật chứng số: 16/LNK, ngày 21/01/2020 và số: 67/LNK, ngày 28/4/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố RG và Quyết định chuyển vật chứng số: 85/QĐ-VKS, ngày 15/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố RG).

- Buộc 02 bị cáo Đỗ Hoàng L và Dương Thị Kim Ph giao nộp 9.000.000 đồng, bị cáo Nguyễn Thị L giao nộp 18.000.000 đồng, do đây là số tiền các bị cáo thu lợi bất chính mà có.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (28/9/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 153/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội tổ chức đánh bạc

Số hiệu:153/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;