Bản án 153/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 153/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 155/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 155/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Lò Văn T (tên gọi khác: không), sinh ngày 29 tháng 12 năm 1991 tại thành phố S, tỉnh Sơn La; nơi ĐKNKTT: Bản T, xã C, thành phố S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Lò Văn D, sinh năm 1960 và bà Lù Thị H, sinh năm 1965; có vợ là Hà Thị V, sinh năm 1994 (đã ly hôn) và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Nghiện ma túy; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09 tháng 09 năm 2019 đến nay, có mặt tai phiên toa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 09/9/2019, sau khi uống Methadone tại Trung tâm kiểm soát bệnh tật thuộc bản C, phường C, thành phố S, T đi bộ lên điểm đón xe buýt trước cổng Bệnh viện đa khoa tỉnh Sơn La, thuộc khu vực tổ 4, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La. Tại đây T gặp 01 người nam giới tự giới thiệu tên là H (Trường không nhớ rõ họ đệm đầy đủ của H), H giới thiệu nhà ở bản H, xã C, thành phố S. Sau khi thỏa thuận, H đã bán cho T 03 viên nén hình tròn đồng dạng, màu hồng, được gói trong nilon màu xanh với giá 100.000đ (Một trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy, T cất gói ma túy vào túi áo khoác ngoài, phía trước đang mặc rồi đi bộ tìm nơi sử dụng. Khi vừa đi được một đoạn thì T bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng là 01 gói nilon màu xanh, bên trong có chứa 03 viên nén hình tròn đồng dạng, màu hồng (T tự giác lấy từ trong túi áo khoác ngoài, phía trước đang mặc ra giao nộp.

Ngày 09/9/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu giám định, kết quả cân tịnh: 03 viên nén hình tròn đồng dạng, màu hồng trong gói nilon màu xanh thu giữ của Lò Văn T có khối lượng 0,29 gam. Lấy 02 viên = 0,2 gam ký hiệu T1 làm mẫu gửi giám định chất ma túy; còn lại 01 viên = 0,09 gam lưu kho, ký hiệu T2.

Kết luận giám định số 1477 ngày 11/9/2019 của Phòng KTHS - Công an tỉnh Sơn La kết luận "Mẫu giám định ký hiệu T1 là ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,20 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,29 gam; loại Methaphetamine".

Do có hành vi nêu trên tại bản cáo trạng số: 155/CT-VKSTP ngày 18/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố bị cáo Lò Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điêm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tại phiên toà vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

- Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy;

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điêm s khoan 1 Điêu 51 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Lò Văn T từ 18 đến 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy: 0,09 gam Methaphetamine, 01 mảnh ni lon màu xanh, 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu (đã niêm phong đúng quy định của pháp luật); Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa: Bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết quả cân tịnh vật chứng, kết luận giám định; nhất trí với Quyết định truy tố của Viện kiểm sát; nhất trí với bản luận tội cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phần tranh luận; bị cáo tỏ ra ăn năn và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lò Văn T đều có lời khai nhận tội thống nhất với nội dung đã cất giữ 0,29 gam Methaphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Lời khai của bị cáo phù hợp với kết quả điều tra như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang được lập hồi 09 giờ 10 phút ngày 09/9/2019 tại khu vực tổ 04, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đối với Lò Văn T cùng vật chứng thu giữ là 0,29 gam viên nén màu hồng, kết luận giám định là Methaphetamine. Đồng thời phù hợp với lời khai của Trần Mạnh C người đã chứng kiến Cơ quan điều tra bắt quả tang đối với Lò Văn T.

[3] Với các căn cứ chứng minh trên đã có đủ cơ sở kết luận, ngày 09/9/2019 bị cáo Lò Văn T đã có hành vi cất giữ trái phép 0,29 gam ma túy, là chất Methaphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, đã trực tiếp xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị cáo đã thành niên, có đủ khả năng nhận thức cũng như điều khiển hành vi. Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì “Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: c,… Methaphetamine …có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam ” Như vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tôt , không có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụngtình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoan 1 Điêu 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, sống phụ thuộc vào gia đình, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo đã mua của 01 một người nam giới tự giới thiệu tên H nhà ở bản H, xã Chiềng X, thành phố S. Kết quả xác minh tại bản H, xã Chiềng X không có ai tên H có đặc điểm như bị cáo T khai. Ngoài lời khai của bị cáo không còn căn cứ nào khác, nên Cơ quan cảnh sát điều tra không có cơ sở điều tra mở rộng vụ án.

[8] Vật chứng vụ án: 0,09 gam Methaphetamine là chất ma túy Nhà nước cấm lưu hành; 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh ni lon màu xanh là vật chứng không có giá trị sử dụng (đã niêm phong đúng quy định của pháp luật) cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

- Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Xử phạt bị cáo Lò Văn T: 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 09 tháng 09 năm 2019);

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 0,09 gam Methaphetamine, 01 mảnh ni lon màu xanh, 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu (đã được niêm phong trong 01 bì viền xanh đỏ, mặt trước ghi: Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn T. Sinh năm 1991. Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 09/9/2019. Gồm 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh ni lon màu xanh; mẫu lưu ký hiệu T2 = 0,09 gam, mặt sau phong bì trên giấy niêm phong có 06 dòng chữ ký + 06 dòng ghi họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, đối tượng bị bắt và 01 dấu tròn đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an thành phố Sơn La).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/11/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14: Buộc bị cáo Lò Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về kháng cáo: Bị cáo Lò Văn T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 28/11/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 153/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:153/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;