Bản án 153/2019/HS-ST ngày 14/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 153/2019/HS-ST NGÀY 14/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 146/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 154/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 7 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Đặng Thanh C, sinh năm 1990 tại An Giang; giới tính: Nam;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 920 M, thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang; Chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 8/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Đặng Thế V và bà Lê Ngọc N; bị cáo có vợ và 02 con sinh năm 2012 và 2016; Tiền án: Không; Tiền sự: Không;

Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/01/2019;

2. Trần Ngọc D, sinh năm 1986 tại Đồng Tháp; giới tính: Nữ;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp K9, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; Chỗ ở: Phòng số 3, nhà trọ B7/28B4 ấp 2, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 4/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn L và bà Trần Thị T; bị cáo có chồng và người con sinh năm 2008; Tiền án: Không; Tiền sự: Không;

Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/01/2019;

Bị cáo có mặt tại phiên tòa;

Bị cáo có mặt tại phiên tòa;

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1- Bà Đặng Thị Diễm T, sinh năm 1986 – có mặt.

Nơi cư trú: 920 M, thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang.

2- Ông Nguyễn Duy L, sinh năm 1983 – có mặt.

Nơi cư trú: Ấp K9, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

3- Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1996 – vắng mặt.

Nơi cư trú: B12/18U1 ấp 2, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 23 giờ 00 ngày 24/01/2019, Công an xã Tân Kiên phối hợp Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành kiểm tra phòng số 3 nhà trọ B7/28B4 ấp 2, xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh do Trần Ngọc D thuê ở; Thời điểm kiểm tra, phòng trọ trên có mặt 03 người gồm: Trần Ngọc D, Đặng Thanh C và Nguyễn Văn T. Qua kiểm tra lực lượng công an phát hiện, thu giữ 06 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu (mà C khai là ma túy tổng hợp, loại hàng đá của C mua về để bán cho người nghiện) trên bàn nhựa màu xanh trong phòng. Lúc này, Trần Ngọc D tự nguyện lấy trong bóp da của D ra 02 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu (mà D khai là ma túy tổng hợp, loại hàng đá của C đưa cho D và để bán cho người nghiện) giao nộp cho lực lượng công an. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với C, D, thu giữ và niêm phong vật chứng rồi chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh xử lý. Qua test ma túy cho thấy C, D, T đều có sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 501/KLGĐ-H ngày 30/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP. Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu thu giữ của Đặng Thanh C cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,3638g, loại Methamphetamine; Tinh thể không màu thu giữ của Trần Ngọc D cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3438g, loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Đặng Thanh Chí khai nhận vào khoảng 21 giờ 00 ngày 24/01/2019, trong lúc C và bạn là Nguyễn Văn T đang ở chơi tại phòng trọ của D, do hết ma túy để sử dụng và bán lại cho người nghiện nên C gọi điện thoại liên lạc và tự điều khiển xe mô tô biển số 71B2-324.18 đến khu vực vòng xoay An Lạc, quận Bình Tân, hỏi mua của tên Gấu (chưa rõ lai lịch) 01 gói ma túy đá giá 800.000 đồng. Sau đó C điều khiển xe mô tô quay lại phòng trọ của D và phân gói ma túy đá vừa mua được thành 08 gói nhỏ; C để 06 gói ma túy đá trên bàn nhựa màu xanh (cạnh cầu thang), đưa cho D 02 gói ma túy đá để ai có hỏi mua thì D bán, D cất giữ 02 gói ma túy đá này trong bóp da của mình, một lúc sau thì lực lượng công an vào kiểm tra và phát hiện như trên. Việc Chí đi mua ma túy và phân lẻ ma túy, D và T đều không biết. Khi C đưa ma túy cho D, T không thấy và cũng không liên quan.

Quá trình điều tra cho thấy C đã hoạt động mua bán trái phép chất ma túy được khoảng 02 tháng nay, bán cho nhiều người nghiện ở nhiều nơi (không nhớ được nơi bán) thông qua điện thoại di động. C và D có quan hệ tình cảm với nhau (thỉnh thoảng C đến phòng trọ của D ở chung), D biết C có sử dụng ma túy nhưng chỉ nhận ma túy từ C để bán cho người nghiện 03 lần, tiền thu lợi cả hai đã tiêu xài cá nhân hết.

Trong số những người nghiện đã mua ma túy thì D trực tiếp bán ma túy cho Nguyễn Văn T hai lần, đều vào tháng 12/2018 tại phòng trọ của D (cả hai lần đều là ma túy do C đưa). Những lần T mua ma túy của D thì đều đem đi nơi khác sử dụng, còn lần bị phát hiện quả tang thì ma túy đá là do C đưa cho T sử dụng chung (không lấy tiền), lúc C và T sử dụng ma túy chung tại phòng trọ của D thì D đi ra ngoài không hay biết. Lời khai này của C phù hợp với lời khai của D và T, kết quả đối chất giữa Chí, D, T và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ.

Về vật chứng vụ án:

1/ 06 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu, qua giám định có khối lượng 2,3638g là ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine thu giữ của bị cáo C.

2/ 02 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu, qua giám định có khối lượng 0,3438g là ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine thu giữ của bị cáo D.

3/ 01 cân tiểu ly, 01 cây kéo, 01 đoạn ống hút nhựa 10cm (01 đầu nhọn), 01 quẹt gas màu vàng thu giữ của bị cáo C và 01 bóp nữ màu nâu thu giữ của bị cáo D.

4/ 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu vàng đồng cùng 02 sim thu giữ của bị cáo C; 01 điện thoại di động hiệu samsung màu vàng đồng cùng 01 sim, 01 máy tính bảng hiệu samsung màu đen thu giữ của bị cáo D.

5/ 01 xe mô tô biển số 71B2-324.18 (số khung RLSCF4EE080129251, số máy E4A5129971). Quá trình điều tra cho thấy xe mô tô này do bà Nguyễn Thị Huệ N đăng ký sở hữu, năm 2016, bà N bán lại xe cho ông Phan Thanh B. Sau đó ông B bán lại xe cho Đặng Thị Diễm T (chị của bị cáo C).

6/ 01 xe mô tô biển số 66N1-012.31 (số khung AY011587, số máy 15C2- 011594). Qua trình điều tra cho thấy xe mô tô này do Nguyễn Duy L (chồng của bị cáo D) đăng ký sở hữu.

7/ 7.200.000 đồng thu giữ của bị cáo Chí và 2.200.000 đồng thu giữ của bị cáo D.

Tại bản cáo trạng số 107/CT-VKS ngày 04 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Đặng Thanh C, Trần Ngọc D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Xử phạt bị cáo Đặng Thanh C từ 08 năm đến 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; phạt bổ sung bị cáo Chí từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng;

- Xử phạt bị cáo Trần Ngọc D từ 07 năm đến 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; phạt bổ sung bị cáo D từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng;

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu vàng đồng cùng 02 sim thu giữ của bị cáo C;

- Trả lại cho bị cáo C 2.200.000 đồng;

- Trả lại cho bị cáo D 01 điện thoại di động hiệu samsung màu vàng đồng cùng 01 sim, 01 máy tính bảng hiệu samsung màu đen và 7.200.000 đồng;

- Trả lại cho bà Đặng Thị Diễm T 01 xe mô tô biển số 71B2-324.18;

- Trả lại cho ông Nguyễn Duy L 01 xe mô tô biển số 66N1-012.3;

Tại phiên tòa, các bị cáo Đặng Thanh C, Trần Ngọc D khai nhận hành vi như Cáo trạng đã truy tố, các bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố đúng, không oan, sai; các bị cáo rất ăn năn hối hận và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt mức hình phạt thấp nhất để các bị cáo sớm quay về với gia đình.

Tại phiên tòa, bà Đặng Thị Diễm T và ông Nguyễn Duy L trình bày không biết các bị cáo mua bán trái phép chất ma túy và không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo. Bà T yêu cầu được nhận lại xe mô tô biển số 71B2-324.18; ông L yêu cầu được nhận lại chiếc xe mô tô biển số 66N1-012.3.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét thấy lời khai tại phiên tòa của các bị cáo Đặng Thanh C, Trần Ngọc D phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng, vật chứng của vụ án, Kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận ngày 24/01/2019 các bị cáo Đặng Thanh C, Trần Ngọc D có tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm bán lại cho người khác tại phòng số 3 nhà trọ B7/28B4 ấp 2, xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị công an bắt quả tang.

[2] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý và sử dụng chất ma túy của Nhà nước, ngoài ra còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân gây ra các căn bệnh xã hội và các loại tội phạm khác. Khi thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, các bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình nhưng vì tham lam, vụ lợi, các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Số ma túy bị cáo C cất giữ, qua giám định là Methamphetamine có khối lượng 2,3638g; số ma túy bị cáo D cất giữ, qua giám định là Methamphetamine có khối lượng 0,3438g. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo C, D đều khai nhận Chí đã đưa ma túy cho D 02 lần để D bán ma túy cho Nguyễn Văn T 02 lần, đều tại phòng trọ của D vào tháng 12/2018. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của Nguyễn Văn T. Ngoài ra, bị cáo C còn khai nhận đã tự bán ma túy cho 3-4 người khác là bạn bè ngoài xã hội của bị cáo C (không biết rõ nhân thân lai lịch của những người này).

[3] Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận các bị cáo Đặng Thanh C, Trần Ngọc D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, với tình tiết định khung tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội trong một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội; đồng thời buộc bị cáo nộp phạt bổ sung một khoản tiền nhất định để sung quỹ Nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Xét về tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo: Trong vụ án này bị cáo C giữ vai trò chính, đi mua ma túy về phân nhỏ ra bán cho người khác và giao cho bị cáo D phụ bán giúp cho bị cáo. Do đó khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của từng bị cáo.

[5] Tuy nhiên, xét thấy tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai cáo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; gia đình bị cáo Chí có công với cách mạng, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo C được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án:

- 06 (sáu) gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu, qua giám định có khối lượng 2,3638g là ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine; 02 (hai) gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu, qua giám định có khối lượng 0,3438g là ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine; 01 (một) cân tiểu ly, 01(một) cây kéo, 01(một) đoạn ống hút nhựa 10cm (01 đầu nhọn), 01 (một) quẹt gas màu vàng, 01 (một) bóp nữ màu nâu. Xét đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu vàng đồng cùng 02 sim thu giữ của bị cáo Chí, bị cáo sử dụng để liên lạc mua bán ma túy nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 điện thoại di động hiệu samsung màu vàng đồng cùng 01 sim, 01 máy tính bảng hiệu samsung màu đen, 7.200.000 đồng thu giữ của bị cáo D. Xét không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên giao trả lại cho bị cáo D số tài sản trên.

- Số tiền 2.200.000 đồng thu giữ của bị cáo C, xét không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên giao trả lại cho bị cáo C số tiền 2.200.000 đồng.

- 01 xe mô tô biển số 71B2-324.18 (số khung RLSCF4EE080129251, số máy E4A5129971), quá trình điều tra cho thấy xe mô tô này do bà Nguyễn Thị Huệ N đăng ký sở hữu, năm 2016, bà N bán lại xe cho ông Phan Thanh B. Sau đó ông B bán lại xe cho Đặng Thị Diễm T (chị của bị cáo C). Trước khi bị bắt mấy ngày bị cáo C mượn chiếc xe trên của bà T để đi công việc, bà T không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo và có yêu cầu nhận lại chiếc xe trên nên giao trả lại chiếc xe mô tô biển số 71B2-324.18 (số khung RLSCF4EE080129251, số máy E4A5129971) cho bà Đặng Thị Diễm T.

- 01 xe mô tô biển số 66N1-012.31 (số khung AY011587, số máy 15C2- 011594), quá trình điều tra cho thấy xe mô tô này do Nguyễn Duy L (chồng của D) đăng ký sở hữu. Ông L không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên giao trả lại chiếc xe mô tô biển số 66N1-012.31 (số khung AY011587, số máy 15C2-011594) cho ông Nguyễn Duy L.

[6] Đối với người đàn ông tên Gấu đã bán ma túy cho C, hiện chưa rõ nhân thân lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện không có cơ sở để điều tra xử lý. Đối với Nguyễn Văn T có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bị Ủy ban nhân dân xã Tân Kiên xử lý hành chính bằng biện pháp giáo dục tại xã, theo Quyết định số 66/QĐ-UBND ngày 31/01/2019.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét chấp nhận quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về tội danh, khung hình phạt đối với các bị cáo cũng như xử lý vật chứng vụ án và chấp nhận đề nghị bà Đặng Thị Diễm T, ông Nguyễn Duy L yêu cầu nhận lại xe. Hội đồng xét xử xét không chấp nhận ý kiến của các bị cáo đề nghị xử phạt mức án thấp nhất vì không tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo.

[9] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với các bị cáo Đặng Thanh Chí;

Căn cứ vào điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với các bị cáo Trần Ngọc D;

Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử phạt bị cáo Đặng Thanh C 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/01/2019.

Buộc bị cáo Đặng Thanh C nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để nộp ngân sách nhà nước.

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc D 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/01/2019.

Buộc bị cáo Trần Ngọc D nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để nộp ngân sách nhà nước.

Tch thu và tiêu hủy: 06 (sáu) gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu, qua giám định có khối lượng 2,3638g là ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine; 02 (hai) gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu, qua giám định có khối lượng 0,3438g là ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine; 01 (một) cân tiểu ly, 01(một) cây kéo, 01(một) đoạn ống hút nhựa 10cm (01 đầu nhọn), 01 (một) quẹt gas màu vàng, 01 (một) bóp nữ màu nâu.

Tch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu vàng đồng cùng 02 sim.

Trả lại cho bị cáo Đặng Thanh C số tiền 2.200.000 (hai triệu hai trăm nghìn) đồng.

Trả lại cho bị cáo Trần Ngọc D 01 (một) điện thoại di động hiệu samsung màu vàng đồng cùng 01 sim, 01 (một) máy tính bảng hiệu samsung màu đen và số tiền 7.200.000 (bảy triệu hai trăm nghìn) đồng.

Trả lại cho bà Đặng Thị Diễm T 01 (một) xe mô tô biển số 71B2-324.18 (số khung RLSCF4EE080129251, số máy E4A5129971).

Trả lại cho ông Nguyễn Duy L 01 (một) xe mô tô biển số 66N1-012.31 (số khung AY011587, số máy 15C2-011594).

(tất cả vật chứng trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh đang tạm giữ theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 12/02/2019 và 20/5/2019 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh) Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 153/2019/HS-ST ngày 14/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:153/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;