TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 152/2024/HS-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở TAND Th phố Biên Hòa xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 54/2024/ TLST-HS ngày 25/01/2024 đối với các bị cáo:
- Nguyễn Th Ng, sinh năm 1994 tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Nơi cư trú: Tổ 4, ấp L, xã P, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 0/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Th L (đã chết) và bà Cao Thị T (còn sống); Tiền án: Ngày 23/3/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ-tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “ Cướp giật tài sản”, chấp hành xong bản án ngày 03/9/2022 ; Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt quả tang ngày 18/8/2023, chuyển tạm giam theo lệnh tạm giam số 1394/LTG-CSĐT ngày 28/8/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Hiện đang tạm giữ, tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai, có mặt.
- Vũ Thị N T, sinh năm 1992 tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Nơi cư trú: Không có nơi cư trú ổn định; Nơi đăng ký thường trú: Tổ 4, ấp P, xã P, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vũ Công Th (còn sống) và bà Nguyễn Thị Ch (còn sống); Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bị Tòa án nhân dân huyện Long Điền - tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xử phạt 20 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản” tại bản án hình sự sơ thẩm số: 192/2023/HSST ngày 21/11/2023; Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt quả tang ngày 18/8/2023, chuyển tạm giam theo lệnh tạm giam số 1395/LTG-CSĐT ngày 28/8/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Hiện đang tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, có mặt.
- Bị hại: Chị Trần Thị Lan A, sinh năm 1997. Trú tại: Khu phố 11, phường A, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 18/8/2023, Nguyễn Th Ng điều khiển xe mô tô hiệu Honda Blade, không gắn biển số chở T ngồi sau (chiếc xe này có biển số 60H1-X, nhưng do quá trình di chuyển biển số xe bị rơi, nên Ng kẹp biển số ở gác-ba-ga phía trước xe). Khi đi đang lưu thông trên đường Bùi Văn Hoà đoạn thuộc khu phố 11, phường A, TP. Biên Hoà, thì Ng và T thấy chị Trần Thị Lan A (sinh năm 1997, trú tại: khu phố 11, phường A, TP. Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai), đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, biển số 60B3-X, phía hộc trước bên trái xe có 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo Reno 5 nên nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại để bán lấy tiền tiêu xài.
Thực hiện ý định trên, Ng điều khiển xe áp sát phía sau xe của chị Lan A, dùng tay phải giật chiếc điện thoại di động Oppo đang để ở hộc trước xe, rồi nhanh chóng đưa cho T cất giữ. T cầm điện thoại ở tay trái, còn Ng tiếp tục điều khiển xe bỏ chạy, thì chị Lan A truy hô và đuổi theo. Lúc này, anh Vũ Đình N (sinh năm 1990, đăng ký thường trú tại: xã Nâm Nung, huyện Krông Nô, tỉnh Đăk Nông) đang lưu thông trên đường, nhìn thấy sự việc nên đã cùng chị Lan A đuổi theo xe của Ng. Khi đuổi theo được khoảng 250m, thì xe của chị Lan A va chạm với xe của Ng, làm Ng và T ngã xuống đường, chiếc điện thoại T đang cầm rơi xuống đường. Chị Lan A nhặt lại điện thoại, rồi cùng người dân bắt giữ Ng và T thì bị Ng và T dùng tay đánh vào đầu, nắm tóc kéo chị Lan A nhằm mục đích tẩu thoát. Chị Lan A cùng người dân đã bắt giữ Ng và T giao Công an phường A lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa điều tra xử lý.
Biên bản ghi lời khai, hỏi cung các bị can (bút lục số 78-88, 93-95, 99-105).
Biên bản ghi lời khai bị hại (bút lục số 106, 110-113).
Biên bản ghi lời khai người làm chứng (bút lục số 65).
Tại kết luận định giá tài sản số 449/KL-HĐGTS, ngày 24/8/2023, của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự, kết luận: 01 (một) điện thoại di động Oppo Reno5, trị giá 2.756.000đ (Hai triệu bảy trăm năm mươi sáu nghìn đồng), (Bút lục số 17-19).
- Trách nhiệm dân sự: chị Trần Thị Lan A đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu các bị can bồi thường (bút lục số 106).
Tại cáo trạng số 78/CT-VKSBH, ngày 22/01/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố các bị cáo :
+ Nguyễn Th Ng về tội “Cướp giật tài sản”, theo quy định tại các điểm d, điểm đ, điểm i, khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.
+ Vũ Thị N T về tội “Cướp giật tài sản”, theo quy định tại các điểm d, đ khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa các bị cáo trình bày: Các bị cáo đồng ý với việc truy tố của Viện kiểm sát và không có ý kiến gì.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:
- Nguyễn Th Ng phạm tội “Cướp giật tài sản”, theo quy định tại các điểm d, đ, i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.
- Vũ Thị N T phạm tội “Cướp giật tài sản”, theo quy định tại các điểm d, đ khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.
Xét nhân thân và vai trò của từng bị cáo: Các bị cáo đều có nhân thân xấu; Bị cáo Ng phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm vì đã có tiền án về tội “ Cướp giật tài sản” chưa được xóa án tích; Bị cáo là người chủ mưu, rủ rê bị cáo T. Bị cáo Vũ Thị N T là người tích cực thực hiện hành vi phạm tội. Cả hai bị cáo đều dùng vũ lực tấn công bị hại để tẩu thoát.
Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Xét về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
Về mức hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn Th Ng từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm tù; Bị cáo T từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù, tổng hợp hình phạt 20 tháng tù tại bản án số 192/2023/HSST ngày 21/11/2023 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu về tội “ Trộm cắp tài sản”.
Về các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:
+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade biển số 60H1-X, là phương tiện các bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Ng khai mượn chiếc xe trên của bạn tên Tuấn Hùng (không rõ họ, địa chỉ). Qua xác minh, chiếc xe mô tô trên là tài sản được đăng ký sở hữu của chị Nguyễn Thị Kim Anh (sinh năm: 1989, đăng ký thường trú tại: tổ 2, ấp 1, xã Vĩnh Xương, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang). Hiện chưa làm việc được với anh Tuấn Hùng và chị Kim Anh, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà tách ra tiếp tục xác minh nguồn gốc xe mô tô hiệu Honda Blade, biển số 60H1-X và xử lý sau.
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo Reno5, là tài sản của chị Trần Thị Lan A, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà đã thu hồi trả lại cho chị Lan A (bút lục số 107-109, 115).
Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra công khai và kết quả tranh luận tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa, lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ và các chứng cứ khác, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật.
[2] Thực tế có cơ sở chứng minh, Khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 18/8/2023, tại đường Bùi Văn Hoà đoạn thuộc khu phố 11, phường A, TP. Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Th Ng và Vũ Thị N T đã có hành vi dùng thủ đoạn nguy hiểm là điều khiển xe mô tô Honda Blade biển số 60H1-Xcướp giật 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Oppo Reno5, trị giá 2.756.000đ (Hai triệu bảy trăm năm mươi sáu nghìn đồng) của chị Trần Thị Lan A. Khi bị chị Lan A đuổi theo bắt giữ, Ng và T hành hung chị Lan A nhằm tẩu thoát, thì Ng và T bị bắt giữ. Bị cáo Ng phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm vì đã có 01 tiền án về tội “ Cướp giật tài sản” chưa được xóa án tích.
[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ. Như vậy, đã đủ cơ sở kết luận các bị cáo:
- Nguyễn Th Ng phạm tội “Cướp giật tài sản”, vi phạm quy định tại các điểm d, đ, i, khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.
- Vũ Thị N T phạm tội “Cướp giật tài sản”, vi phạm quy định tại các điểm d, đ khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.
[4] Xét về nhân thân và vai trò của từng bị cáo: Các bị cáo đều có nhân thân xấu. Bị cáo Nguyễn Th Ng là người chủ mưu, rủ rê và tích cực thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo Vũ Thị N T là người được bị cáo Ng rủ và tích cực thực hiện hành vi phạm tội.
[5] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Không có tình tiết tăng nặng. Tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.
Xét thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo và giáo dục bị cáo có ý thức tuân thủ pháp luật.
[6]Tổng hợp hình phạt 20 tháng tù tại bản án số 192/2023/HSST ngày 21/11/2023 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền-tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu về tội “ Trộm cắp tài sản” đối với bị cáo Vũ Thị N T.
[7] Về các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade biển số 60H1-X, là phương tiện các bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Ng khai mượn chiếc xe trên của bạn tên Tuấn Hùng (không rõ họ, địa chỉ). Qua xác minh, chiếc xe mô tô trên là tài sản được đăng ký sở hữu của chị Nguyễn Thị Kim Anh (sinh năm: 1989, đăng ký thường trú tại: tổ 2, ấp 1, xã Vĩnh Xương, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang). Hiện chưa làm việc được với Tuấn Hùng và chị Kim Anh, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà tách ra tiếp tục xác minh nguồn gốc xe mô tô hiệu Honda Blade, biển số 60H1-X và xử lý sau là có căn cứ.
[7] Lời phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần ghi nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ các điểm d, đ, i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017);
- Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Th Ng phạm tội “Cướp giật tài sản”.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Th Ng 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/8/2023.
2. Căn cứ các điểm d, đ khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 56 và Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017);
- Tuyên bố bị cáo: Vũ Thị N T phạm tội “Cướp giật tài sản”.
- Xử phạt bị cáo Vũ Thị N T 03 (ba) năm tù. Tổng hợp hình phạt 20 (hai mươi) tháng tù tại bản án hình sự sơ thẩm số 192/2023/HSST ngày 21/11/2023 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu về tội “ Trộm cắp tài sản”. Buộc bị cáo Vũ Thị N T chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 04 (bốn) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/8/2023.
3. Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Các bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày. Người có mặt tính từ ngày tuyên án. Người vắng mặt tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 152/2024/HS-ST về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 152/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về