Bản án 152/2024/DS-PT về tranh chấp tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 152/2024/DS-PT NGÀY 25/03/2024 VỀ TRANH CHẤP TUYÊN BỐ VĂN BẢN CÔNG CHỨNG VÔ HIỆU   

Vào các ngày 18, 25 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An mở phiên tòa để xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 525/2023/TLPT-DS ngày 27 tháng 11 năm 2023 về “Tranh chấp tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 104/2023/DS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 877/2023/QĐ-PT ngày 15 tháng 12 năm 2023, giữa:

1. Nguyên đơn:

1.1. Bà Huỳnh Thị Q, sinh năm 1952.

Địa chỉ: Số nhà A Lô C Ấp E, xã M, huyện B, tỉnh Long An.

1.2. Ông Huỳnh Tấn Đ, sinh năm 1968.

Địa chỉ: Số nhà H, Ấp G, xã M, huyện B, tỉnh Long An.

1.3. Bà Huỳnh Thị Thu H, sinh năm 1971.

Địa chỉ: Số nhà 4 T, Phường A, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn ông Huỳnh Tấn Đ: Luật sư Lê Văn T - Văn phòng L2 thuộc Đoàn luật sư Thành phố H.

2. Bị đơn: Văn phòng C.

Người đại diện hợp pháp theo pháp luật: ông Dương Tấn T1 - Trưởng Văn phòng. Địa chỉ: Số A N, Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Long An.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Huỳnh Thị Thu H1, sinh năm 1964.

Địa chỉ: Số F, tổ H, khu phố E, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương.

3.2. Ông Huỳnh Tấn P, sinh năm 1979.

Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện B, tỉnh Long An.

3.3. Ông Huỳnh Ngọc Đ1, sinh năm 1961.

Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện B, tỉnh Long An.

3.4. Bà Trần Thị Cẩm G, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện B, tỉnh Long An.

- Người kháng cáo: Bà Huỳnh Thị Q, ông Huỳnh Tấn Đ, bà Huỳnh Thị Thu H; bà Huỳnh Thị Thu H1.

(Ông Đ, Luật sư T, ông P có mặt; Các đương sự còn lại vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại Đơn khởi kiện ngày 26/4/2021, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn bà Huỳnh Thị Q, Ông Huỳnh Tấn Đ và bà Huỳnh Thị Thu H cùng thống nhất trình bày:

Cha mẹ các ông bà là cụ Huỳnh Văn L, sinh năm 1927 chết năm 2021; cụ Phạm Thị T2, sinh năm 1929 chết năm 1984. Cụ L và cụ T2 có 05 người con gồm: bà Huỳnh Thị Q, sinh năm 1952; ông Huỳnh Ngọc Đ1, sinh năm 1961; bà Huỳnh Thị Thu H1, sinh năm 1964; ông Huỳnh Tấn Đ, sinh năm 1968 và bà Huỳnh Thị Thu H, sinh năm 1971.

Lúc sinh thời, cụ L và cụ T2 cùng nhau tạo lập được khối tài sản chung là nhà đất tại Ấp A, xã A, huyện B. Năm 1995, sau khi cụ T2 chết cụ L đứng ra kê khai và làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến ngày 05/01/1996 Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A 808409 đối với thửa đất số 74, 75 tờ bản đồ số 9; diện tích 2.184m2 tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Long An cho cụ Huỳnh Văn L.

Năm 2001, cụ L tiến hành họp gia đình và thống nhất giao lại toàn bộ nhà, đất nêu trên sử dụng vào việc thờ cúng, không được quyền thế chấp, chuyển nhượng cho ai. Sau khi thống nhất ý kiến trong gia đình, cụ L có lập văn bản di chúc và được Ủy ban nhân dân xã A chứng thực ngày 16/8/2001.

Đến ngày 18/11/2002, cụ L tiếp tục lập văn bản “Tờ cho đất ba đứa con” để thể hiện ý chí của cụ là phân chia phần diện tích đất thuộc thửa 74, 75 thành ba phần bằng nhau để cho (3 người con) gồm ông Huỳnh Ngọc Đ1, Huỳnh Tấn Đ, Huỳnh Thị Thu H1.

Năm 2004 cụ Huỳnh Văn L tiếp tục lập di chúc để lại nhà đất tại thửa 74, 75 cho ông Huỳnh Ngọc Đ1 với điều kiện ông Đ1 không được quyền bán, sang nhượng hoặc thế chấp di sản mà cụ để lại.

Năm 2019, lúc này cụ L đã 92 tuổi, sức khỏe đã yếu không còn tỉnh táo, minh mẫn, nói chuyện lúc nhớ lúc quên, anh em các ông bà thường xuyên thay phiên nhau chăm sóc. Lợi dụng lúc trong nhà không có người, ông Huỳnh Tấn P là cháu nội của cụ L đã yêu cầu Văn phòng C soạn sẵn di chúc với nội dung để lại toàn bộ tài sản của cụ L cho ông P rồi mang xuống nhà để cầm tay cụ L điểm chỉ vào di chúc mà không cho bất cứ thành viên nào khác trong gia đình biết sự việc. Sau khi cụ L chết, ông Huỳnh Tấn P tiến hành làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế theo di chúc thì các ông bà mới phát hiện sự việc cụ L có lập bản di chúc này.

Việc lập Văn bản di chúc có số công chứng 11028, quyển số 01-2019/TP/CC-SCC/HĐGD lập ngày 04/10/2019 tại Văn phòng C đối với thửa đất số 74, 75 tờ bản đồ số 9 tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Long An của cụ L có những điểm không đúng quy định của pháp luật, không phù hợp tình hình thực tế vì các lý do sao:

Thứ nhất, tại thời điểm lập di chúc, cụ Huỳnh Văn L đã lớn tuổi, sức khỏe suy giảm nhiều, mắt kém, khả năng nghe và nói cũng đã giảm đi rất nhiều thậm chí nhiều lúc không thể làm chủ được hành vi của bản thân. Do đó, việc cụ Huỳnh Văn L đến bệnh viện T4 để khám sức khỏe và được cấp Giấy chứng nhận sức khỏe tâm thần số: 176/2019GĐSKTT/BVTT do Bệnh viện tâm thần - Sở Y chứng nhận ngày 03/10/2019 là hoàn toàn không khả thi. Dựa vào tình trạng sức khỏe của cụ L tại thời điểm lập di chúc thì có cơ sở để nghi ngờ rằng việc cụ L đồng ý điểm chỉ vào di chúc là do bị cầm tay, ép buộc.

Thứ hai, đối với tài sản của cụ từ lúc mới tạo lập được đến trước khi chết, cụ L đã nhiều lần thể hiện ý chí thông qua các văn bản đã lập đều là để lại cho các con quản lý, sử dụng vào việc thờ cúng chứ không quyền chuyển nhượng cho bất kỳ ai, ngoài ra cũng chưa có một lần nào ông thể hiện ý nguyện sẽ để lại toàn bộ tài sản cho ông Huỳnh Tấn P. Như vậy, nội dung Văn bản di chúc công chứng số 11028, quyển số 01-2019/TP/CC-SCC/HĐGD lập ngày 04/10/2019 tại Văn phòng C là hoàn toàn đi ngược lại với ý chí, nguyện vọng của cụ L khi còn sống.

Thứ ba, theo khoản 1, Điều 56 Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Người lập di chúc phải tự mình yêu cầu công chứng di chúc, không ủy quyền cho người khác yêu cầu công chứng di chúc” nhưng tại thời điểm lập văn bản di chúc nêu trên cụ L đã cao tuổi, sức khỏe yếu, bị hạn chế về thể chất, hạn chế về nhận thức nên không thể tự mình liên hệ, trực tiếp yêu cầu Văn phòng C được.

Thứ tư, tại phần I của di chúc lập ngày 04/10/2019, có thể hiện việc cụ Huỳnh Văn L tự mời ông Trần Ngọc T3, sinh năm 1998, CMND số 301659097, cấp ngày 01/7/2015, nơi cấp Công an tỉnh L, có địa chỉ tại Ấp H, xã L, huyện B, tỉnh Long An làm chứng để cùng công chứng viên đọc và giải thích nội dung di chúc. Tuy nhiên việc này là không có cơ sở vì thời điểm đó cụ L không thể tự đi lại được và không đủ tỉnh táo, minh mẫn để nhận biết ai là người đủ điều kiện làm chứng trong di chúc của mình. Ngoài ra, trong toàn bộ nội dung của di chúc cũng không thể hiện việc người làm chứng hoặc công chứng viên đã đọc lại toàn bộ nội dung di chúc, đồng thời giải thích nội dung di chúc cho cụ L nghe và cũng không có xác nhận của ông Trần Ngọc T3 là cụ L đã hiểu rõ nội dung di chúc, đồng ý, tự nguyện điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt mình.

Từ những lý do trên, các nguyên đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Bến Lức chấp nhận yêu cầu khởi kiện tuyên bố Văn bản di chúc công chứng số 11028, Quyển số 01-2019/TP/CC-SCC/HĐGD lập ngày 04/10/2019 tại Văn phòng C đối với thửa đất số 74, 75; tờ bản đồ số 9 tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Long An là vô hiệu.

Bị đơn Văn phòng C trình bày:

Việc yêu cầu tuyên văn bản công chứng vô hiệu Tòa án nên yêu cầu đương sự điều chỉnh và thụ lý vụ việc dân sự theo khoản 1, Khoản 5 và Khoản 6 Điều 68; Khoản 6 Đ27 BLTT dân sự để giải quyết theo quy định là phù hợp hơn, thuận lợi cho các Tổ chức hành nghề công chứng trong việc tham gia tố tụng (đa số là xin vắng mặt), cung cấp chứng cứ đỡ mất thời gian của Tòa án cũng như hồ sơ tống đạt giải quyết của Tòa án.

Di chúc do cụ Huỳnh Văn L lập được Văn phòng C chứng nhận ngày 04/10/2019, số công chứng 11028 quyển 01-2019-TP/CC-SCC/HĐGD đối với phần đất có diện tích 1.866m2, đất ở tại nông thôn; đất trồng cây lâu năm (bao gồm tài sản trên đất) thuộc thửa 74; 75 tờ bản đồ số 9 tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Long An theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số A808409, số vào sổ 0586QSDĐ/0207-LA do UBND huyện B cấp ngày 05/01/1996 để lại di sản cho cháu nội là Huỳnh Tấn P là hoàn toàn hợp pháp quy định pháp luật - khi lập di chúc cụ Huỳnh Văn L còn yêu cầu thay thế hết tất cả các di chúc mà cụ lập trước đây do các con của cụ đã yêu cầu cụ lập di chúc và lấy cất di chúc mà bỏ cụ không phụng dưỡng chỉ có cháu nội làm hớt tóc phụng dưỡng cụ lúc xế chiều.

Cụ Huỳnh Văn L khi lập di chúc đã có giám định sức khoẻ tâm thần để lập di chúc với chứng nhận hiện tại tâm thần bình thường theo giấy chứng nhận sức khoẻ tâm thần số 176/2019 GĐSKTT/BVTT được Bệnh Viện T4 - Sở Y chứng nhận ngày 03/10/2019.

về việc lời chứng ghi “TẠI VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG BẾN LỨC” là thực hiện theo quy định tại Điều 44; 47 của Luật công chứng; Văn bản di chúc lập tại nhà cụ Huỳnh Văn L nhưng Lời chứng là lập tại Văn phòng Công chứng nên lời chứng được ghi như trên và ghi “Tại nhà riêng của cụ Huỳnh Văn L” ở dòng 26 của trang 3 (lời chứng) và thể hiện rõ biểu mẫu 23 tại Thông tư 01/2021/TT-BTP ngày 03/02/2021 thay thế thông tư 06/2015/TT-BTP ngày 15/06/2015.

Di chúc gồm có 02 bộ phận gồm nội dung di chúc và lời chứng; Văn phòng Công chứng chỉ 01 con dấu và con dấu không được đem khỏi Văn phòng nên noi lấy chữ ký hay dấu vân tay của đương sự là nhà riêng của đương sự còn nơi thực hiện công chứng là tại Văn phòng Công chứng - như hướng dẫn rõ tại biểu mẫu 23 thông tư 01/2021/TT-BTP ngày 03/02/2021 thay thế thông tư 06/2015/TT-BTP ngày 15/06/2015 do thông tư này ghi không rõ.

Di chúc này thực hiện hoàn toàn khách quan, đúng theo trình tự thủ tục pháp luật quy định. Việc bà Huỳnh Thị Q, bà Huỳnh Thị Thu H, ông Huỳnh Tấn Đ khởi kiện yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu là không cơ sở. Văn phòng C chứng nhận đề nghị quý Toà giải quyết theo căn cứ quy định pháp luật. Văn phòng Công chứng xin được vắng mặt trong tất cả các giai đoạn tố tụng của Tòa án trong vụ việc dân sự trên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Huỳnh Thị Thu H1 trình bày: Bà thống nhất với lời trình bày của các nguyên đơn không bổ sung gì thêm, bà đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Tấn P trình bày:

Ông thống nhất với lời trình bày của ông bà Q, bà H1, ông Đ và bà H về hàng thừa kế thứ nhất của cụ L và cụ T2 gồm: Bà Huỳnh Thị Q; ông Huỳnh Ngọc Đ1; bà Huỳnh Thị Thu H1; ông Huỳnh Tấn Đ và bà Huỳnh Thị Thu H.

Về di sản của cụ L để lại gồm: thửa đất số 74, 75 tờ bản đồ số 9 tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Long An, nhưng đã bị Nhà nước thu hồi khoảng 1.000m2, do đó diện tích còn lại không nhiều. Khi còn sống cụ L đã chia cho ông Đ khoảng 300m2, ông Đ1 khoảng 300m2 và khi nhà nước đền bù đất bị thu hồi cụ L đã chia tiền cho những người con gái.

Đến năm 2019 cụ L có lập di chúc định đoạt cho ông thửa 74, 75 tờ bản đồ số 9 tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Long An, di chúc được công chứng số 11028, quyển số 01-2019/TP/CC-SCC/HĐGD lập ngày 04/10/2019 tại Văn phòng C. Khi lập di chúc thì cụ L hoàn toàn tỉnh táo, tinh thần minh mẫn nên phía bà Q, bà H1 và ông Đ trình bày là cụ L không minh mẫn khi lập di chúc hoàn toàn không đúng sự thật. Do đó, trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông không đồng ý.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Văn Đ2 trình bày: Ông là cha của ông Huỳnh Tấn P, ông thống nhất với lời trình bày của ông P không bổ sung gì thêm. Ông cũng thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn, bà H1, ông P về hàng thừa kế thứ nhất của cụ L, cụ T2. Ông đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Người có quyền li, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Ngọc G1 trình bày:

Bà là vợ ông Huỳnh Tấn P. Bà thống nhất với lời trình bày của của ông P không bổ sung gì thêm. Bà đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 104/2023/DS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An đã căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 624, 625, 626, 627, 628, 630, 631, 632, 635, 636, 639, 640, 643 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 44, 47,48, 56 Luật Công chứng năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị Q, bà Huỳnh Thị Thu H, ông Huỳnh Tấn Đ về việc yêu cầu vô hiệu Văn bản di chúc công chứng số 11028 quyến số 012019/TP/CC-SCC/HĐGD lập ngày 04/10/2019 tại Văn phòng C.

2. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: 2.000.000 đồng ông Huỳnh Tấn Đ, bà Huỳnh Thị Q và bà Huỳnh Thị Thu H phải chịu, các nguyên đơn đã nộp xong.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Huỳnh Thị Thu H và ông Huỳnh Tấn Đ phải chịu 300.000 đồng án phí khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà bà Huỳnh Thị Thu H, ông Huỳnh Tấn Đ đã nộp theo Biên lai thu số 0008261 ngày 08/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Lức.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo, quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong giai đoạn thi hành án.

Ngày 12/10/2023, bà Huỳnh Thị Q, ông Huỳnh Tấn Đ, bà Huỳnh Thị Thu H, bà Huỳnh Thị Thu H1 kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên bố Văn bản di chúc công chứng số 11028, Quyển số 01-2019/TP/CC-SCC/HĐGD lập ngày 04/10/2019 tại Văn phòng C đối với thửa đất số 74, 75, tờ bản đồ số 9, tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Long An là vô hiệu.

Tại phiên tòa phúc thm, Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, người kháng cáo không rút yêu cầu kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, không cung cấp, nộp thêm tài liệu, chứng cứ mới và vẫn giữ nguyên ý kiến như đã trình bày ở cấp sơ thẩm.

Ông Huỳnh Tấn Đ là nguyên đơn trình bày: Văn bản di chúc công chứng số 11028, Quyển số 01-2019/TP/CC-SCC/HĐGD lập ngày 04/10/2019 tại Văn phòng C đối với thửa đất số 74, 75; tờ bản đồ số 9 tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Long An không hợp pháp, ông L thời điểm ký di chúc đã lớn tuổi, không minh mẫn nên đề nghị Tòa án tuyên bố vô hiệu.

Ông Huỳnh Tấn P trình bày: Việc ông Huỳnh Văn L là ông nội ông lập di chúc cho ông là ý chí của ông L, không ai ép buộc nên đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

Luật sư Lê Văn T trình bày: Ông đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là vô hiệu Văn bản di chúc công chứng số 11028, quyển số 01-2019/TP/CC-SCC/HĐGD lập ngày 04/10/2019 tại Văn phòng C, vì khi lập di chúc cụ L đã không còn minh mẫn, sáng suốt, nội dung di chúc không thể hiện đúng ý chí nguyện vọng của ông cụ L và khi lập di chúc không có mặt của ông Đ, bà Q, bà H1 và bà H do đó có thể cụ L lập di chúc bị người khác ép buộc. Từ lúc còn sống đến năm 2004, chưa khi nào các nguyên đơn nghe ý chí của ông T để lại di sản cho ông P. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng hết thời hiệu chia thừa kế của cụ Phạm Thị T2 là không phù hợp, áp dụng pháp lệnh thừa kế năm 1990 thì thời hiệu chia thừa kế tính từ năm 1990, không phải tính từ năm 1984 đến 2014, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, sửa bản án dân sự sơ thẩm.

Đại diện Viện kim sát nhân dân tỉnh Long An phát biu quan điểm giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Kháng cáo của bà Huỳnh Thị Q, ông Huỳnh Tấn Đ, bà Huỳnh Thị Thu H, bà Huỳnh Thị Thu H1 đúng quy định của pháp luật nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Từ khi thụ lý cho đến khi đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật.

Bà Huỳnh Thị Q, ông Huỳnh Tấn Đ, bà Huỳnh Thị Thu H, bà Huỳnh Thị Thu H1 kháng cáo yêu cầu vô hiệu văn bản di chúc công chứng lập ngày 04/10/2019 tại Văn phòng C đối với quyền sử dụng đất thửa số 74, 75 cùng tờ bản đồ số 9 đất tại xã A, huyện B, tỉnh Long An.

Xét thấy:

Di chúc ngày 04/10/2019 của cụ Huỳnh Văn L được lập thành văn bản. Tại thời điểm lập di chúc cụ L có kết luận hiện tại tâm thần bình thường của Bệnh viện T4. Di chúc có ông Trần Ngọc T3 làm chứng ký tên vào bản di chúc. Ông T3 trình bày ông T3 chứng kiến toàn bộ quá trình công chứng viên lập di chúc là đúng theo ý nguyện của cụ L và tại thời điểm lập di chúc cụ T tỉnh táo, tiếp chuyện, trả lời Công chứng viên bình thường, không thấy có dấu hiệu bị ai ép buộc, đe dọa hoặc lừa dối. Do đó thủ tục lập di chúc của cụ L được thực hiện đúng và phù hợp theo Điều 632, 636, 639 Bộ luật dân sự 2015 và Khoản 2 Điều 44 Luật Công chứng 2014.

Bà Q, ông Đ, bà H, bà H1 cho rằng khi lập di chúc cụ L đã 92 tuổi, sức khỏe đã yếu không còn tỉnh táo, minh mẫn không đủ điều kiện sức khỏe để lập di chúc nhưng các ông bà không đưa ra được chứng cứ chứng minh.

Cụ Phạm Thị T2 chết năm 1984, đến ngày 05/01/1996 cụ Huỳnh Văn L được Ủy ban nhân dân huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 74, 75. Năm 2004, 2005 cụ L đã tặng cho một phần quyền sử dụng đất tại thửa 74, 75 cho ông Đ, ông Đ2. Hàng thừa kế thứ nhất của cụ L, cụ T2 biết nhưng không ai có ý kiến hay tranh chấp gì. Đồng thời, cụ T2 chết năm 1984 và đến ngày 26/4/2021 nguyên đơn khởi kiện là hết thời hiệu chia thừa kế theo Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2015. Do đó, các nguyên đơn cho rằng đây là tài sản chung của cụ L, cụ T2 là không có cơ sở.

Như vậy, Di chúc của cụ Huỳnh Văn L được lập thành văn bản có người làm chứng và được công chứng đúng theo quy định tại Điều 627, 628, 635 Bộ luật dân sự 2015. Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và có nội dung phù hợp theo Điều 631 Bộ luật dân sự 2015. Bản án sơ thẩm tuyên không chấp nhận vô hiệu văn bản di chúc lập ngày 04/10/2019 tại Văn phòng C.

Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: không chấp nhận kháng cáo của bà Huỳnh Thị Q, ông Huỳnh Tấn Đ, bà Huỳnh Thị Thu H, bà Huỳnh Thị Thu H1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bà Huỳnh Thị Q, ông Huỳnh Tấn Đ, bà Huỳnh Thị Thu H, bà Huỳnh Thị Thu H1 thực hiện đúng về hình thức, nội dung và thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nên vụ án được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về thủ tục xét xử vắng mặt bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Văn phòng C, bà Huỳnh Thị Q. bà Huỳnh Thị Thu H, bà Huỳnh Thị Thu H1, ông Huỳnh Văn Đ2, bà Trần Thị cẩm G đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt những người này.

[3] Về phạm vi xét xử phúc thẩm:

Nguyên đơn bà Huỳnh Thị Q, ông Huỳnh Tấn Đ, bà Huỳnh Thị Thu H khởi kiện yêu cầu tuyên bố Văn bản di chúc công chứng số 11028, Quyển số 01-2019/TP/CC-SCC/HĐGD lập ngày 04/10/2019 tại Văn phòng C đối với thửa đất số 74, 75, tờ bản đồ số 9 tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Long An vô hiệu.

Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Sau khi xét xử sơ thẩm, bà Huỳnh Thị Q, ông Huỳnh Tấn Đ, bà Huỳnh Thị Thu H, bà Huỳnh Thị Thu H1 kháng cáo yêu cầu Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, vô hiệu di chúc. Căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại phần của bản án sơ thẩm có kháng cáo, liên quan đến nội dung kháng cáo của đương sự.

[4] Xét kháng cáo của bà Huỳnh Thị Q, ông Huỳnh Tấn Đ, bà Huỳnh Thị Thu H, bà Huỳnh Thị Thu H1, thấy rằng:

[4.1] Cụ Huỳnh Văn L (sinh năm 1927, chết năm 2021) và cụ Phạm Thị T2 (sinh năm 1929, chết năm 1984). Cụ L và cụ T2 có 05 người con gồm: bà Huỳnh Thị Q, ông Huỳnh Ngọc Đ1, bà Huỳnh Thị Thu H1, ông Huỳnh Tấn Đ và bà Huỳnh Thị Thu H.

[4.2] Cụ Huỳnh Văn L đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 74, 75, tờ bản đồ số 9, diện tích 2.184m2, tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Long An. Nguyên đơn cho rằng thửa đất 74, 75 là tài sản chung của cụ Phạm Thị T2 và cụ Huỳnh Văn L trong thời kỳ hôn nhân, thấy rằng:

Cụ Phạm Thị T2 chết năm 1984, cụ Huỳnh Văn L được Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 74, 75, cùng tờ bản đồ số 9, tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Long An vào ngày 05/01/1996. Năm 2004, 2005 cụ L đã tặng cho một phần quyền sử dụng đất tại thửa 74, 75 cho ông Đ, ông Đ1. Hàng thừa kế thứ nhất của cụ L, cụ T2 đều biết nhưng không ai có ý kiến hay tranh chấp gì về việc cụ L được Ủy ban nhân dân huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tặng cho quyền sử dụng cho ông Đ1, ông Đ, cũng như cụ L đã quản lý, sử dụng thửa 74, 75 trong một thời gian dài liên tục không có bất kỳ ai tranh chấp, điều đó chứng tỏ ông Đ, bà Q, bà H, bà H1 và ông Đ1 đều thống nhất thừa nhận đây là tài sản riêng của cụ L không phải tài sản chung của cụ L, cụ T2. Cụ T2 chết năm 1984 và đến ngày 26/4/2021 nguyên đơn khởi kiện là hết thời hiệu chia thừa kế theo Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2015. Do đó, các nguyên đơn cũng như bà H1 cho rằng đây là tài sản chung của cụ L, cụ T2 là không có căn cứ.

Như vậy, có đủ căn cứ xác định thửa đất số 74, 75, tờ bản đồ số 9, diện tích 2.184m2, tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Long An là tài sản riêng của cụ Huỳnh Văn L.

[4.3] Xét di chúc do cụ Nguyễn Văn L1 lập vào ngày 04/10/2019, thấy rằng:

Vào ngày 04/10/2019, cụ L1 lập di chúc để lại hai thửa đất này cho ông Huỳnh Tấn P (cháu nội cụ L1). Di chúc được công chứng tại Văn phòng C số công chứng 11028 quyển số 012019/TP/CC-SCC/HĐGD lập ngày 04/10/2019.

[4.3.1] Xét về hình thức, nội dung của di chúc:

Di chúc của cụ Huỳnh Văn L được lập thành văn bản có người làm chứng và được công chứng đúng theo quy định tại Điều 627, 628, 635 Bộ luật dân sự 2015. Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và có nội dung phù hợp theo Điều 631 Bộ luật dân sự 2015.

Về thủ tục lập di chúc: Trước khi lập di chúc ngày 03/10/2019 cụ L đến Bệnh viện T4 khám để xác nhận tình trạng sức khỏe tâm thần tại thời điểm lập di chúc và Bệnh viện T4 kết luận sức khỏe tinh thần của cụ là bình thường. Khi lập di chúc cụ Huỳnh Văn L yêu cầu Công chứng viên Phòng C1 công chứng nội dung di chúc của cụ. Đồng thời cụ L cũng nhờ ông Trần Ngọc T3 làm chứng ký tên vào bản di chúc. Trong quá trình giải quyết vụ án thì ông T3 cũng có lời trình bày là ông T3 chứng kiến toàn bộ quá trình công chứng viên lập di chúc là đúng theo ý nguyện của cụ L và tại thời điểm lập di chúc cụ Huỳnh Văn L tỉnh táo, tiếp chuyện, trả lời Công chứng viên bình thường, không thấy có dấu hiệu bị ai ép buộc, đe dọa hoặc lừa dối. Do đó việc ông T3 làm chứng khi cụ L lập di chúc là phù hợp với Điều 632 của Bộ luật dân sự 2015, nên thủ tục lập di chúc của cụ L được thực hiện đúng và phù hợp theo Điều 632, 636, 639 Bộ luật dân sự 2015 và Khoản 2 Điều 44 Luật Công chứng 2014 .

[4.3.2] Bà Huỳnh Thị Q, ông Huỳnh Tấn Đ, bà Huỳnh Thị Thu H yêu cầu tuyên bố Văn bản di chúc công chứng số 11028 quyển số 012019/TP/CC-SCC/HĐGD lập ngày 04/10/2019 tại Văn phòng C đối với quyền sử dụng đất thửa số 74, 75 cùng tờ bản đồ số 9 đất tại xã A, huyện B, tỉnh Long An là vô hiệu vì cho rằng khi lập di chúc cụ L đã 92 tuổi, sức khỏe đã yếu không còn tỉnh táo, minh mẫn không đủ điều kiện sức khỏe để lập di chúc và khi lập di chúc không có mặt các con gồm bà Q, ông Đ, bà H và bà H1. Tuy nhiên, các ông bà không đưa ra được chứng cứ chứng minh khi lập di chúc cụ L đã không còn minh mẫn, sáng suốt hơn nữa pháp luật không có quy định khi lập di chúc phải có mặt các con của người lập di chúc.

Ngoài ra, bà Q, bà H1, bà H và ông Đ cho rằng trước đây cụ L đã lập rất nhiều di chúc đều viết tay cụ thể vào năm 2001; năm 2002 và năm 2004 có cùng nguyện vọng để lại di sản trên dùng vào việc thờ cúng do đó các ông bà cho rằng di chúc có số công chứng 11028, quyển số 01-2019/TP/CC-SCC/HĐGD lập ngày 04/10/2019 tại Văn phòng C cụ L định đoạt tài sản cho ông Huỳnh Tấn P có dấu hiệu bị lừa dối, đe dọa và Giấy chứng nhận tâm thần ngày 03/10/2019 là không đúng, nhưng các ông bà không đưa ra được chứng cứ để chứng minh.

[4.3.3] Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thu thập chứng cứ và tại Công văn số 151/BVTT-KHTH ngày 04/5/2023 của Bệnh viện T4 đã thể hiện “Bệnh viện T4 giám định sức khỏe tâm thần cho cụ Huỳnh Văn L đúng theo chức năng và quyền hạn, kết quả giám định là đúng theo giấy chứng nhận sức khỏe tâm thần số 176/2019 GĐSKTT/BVTT ngày 03 tháng 10 năm 2019 của Bệnh viện T4 tại thời điểm giám định”. Do đó các nguyên đơn cho rằng Giấy chứng nhận tâm thần ngày 03/10/2019 là giả hoàn toàn không có cơ sở. Hơn nữa, khi cụ L lập di chúc cũng có người làm chứng và người làm chứng đã trình bày khi lập di chúc cụ L hoàn toàn tự nguyện, không bị ai lừa dối đe dọa. Di chúc có số công chứng 11028, quyển số: 01-2019/TP/CC-SCC/HĐGD lập ngày 04/10/2019 tại Văn phòng C có nội dung “Di chúc này thay thế tất cả những bản di chúc đã lập trước ngày 04/10/2019”. Đối chiếu theo các quy định của pháp luật, người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào, trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ theo Điều 640 Bộ luật Dân sự 2015Đồng thời, khoản 5 Điều 643 Bộ luật dân sự 2015 quy định khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực. Vì vậy bản di chúc cuối cùng ngày 04/10/2019 của cụ L sẽ được xem xét có hiệu lực pháp luật.

[5] Từ những phân tích trên, có đủ căn cứ xác định Văn bản di chúc công chứng số 11028 quyển số 012019/TP/CC-SCC/HĐGD lập ngày 04/10/2019 tại Văn phòng C đối với quyền sử dụng đất thửa số 74, 75 cùng tờ bản đồ số 9 tọa lạc tại xã A, huyện B, tỉnh Long An được lập đúng, phù hợp theo quy định của pháp luật, thể hiện đúng ý chí của người lập di chúc, vì vậy di chúc có hiệu lực kể từ ngày cụ Huỳnh Văn L chết.

Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết là có căn cứ và đúng quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Huỳnh Thị Q, ông Huỳnh Tấn Đ, bà Huỳnh Thị Thu H, ba Huỳnh Thị Thu H1.

[6] Xét đề nghị của Luật sư không có căn cứ nên không chấp nhận.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nên chấp nhận.

[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Huỳnh Thị Q là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Huỳnh Thị Thu H và ông Huỳnh Tấn Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định là 300.000 đồng.

[9] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bà Huỳnh Thị Q, ông Huỳnh Tấn Đ, bà Huỳnh Thị Thu H, bà Huỳnh Thị Thu H1 không được chấp nhận nên các đương sự phải chịu án phí theo quy định. Bà Huỳnh Thị Q là người cao tuồi nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Huỳnh Thị Q, ông Huỳnh Tấn Đ, bà Huỳnh Thị Thu H, bà Huỳnh Thị Thu H1.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 104/2023/DS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 624, 625, 626, 627, 628, 630, 631, 632, 635, 636, 639, 640, 643 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 44, 47,48, 56 Luật Công chứng năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị Q, bà Huỳnh Thị Thu H, ông Huỳnh Tấn Đ về việc yêu cầu vô hiệu Văn bản di chúc công chứng số 11028 quyển số 012019/TP/CC-SCC/HĐGD lập ngày 04/10/2019 tại Văn phòng C.

2. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: 2.000.000 đồng ông Huỳnh Tấn Đ, bà Huỳnh Thị Q và bà Huỳnh Thị Thu H phải chịu, các nguyên đơn đã nộp xong.

3. về án phí dân sự sơ thẩm:

Miễn án phí cho bà Huỳnh Thị Q án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Huỳnh Thị Thu H và ông Huỳnh Tấn Đ phải liên đới chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm được khấu trừ số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí bà H, ông Đ đã nộp theo biên lai thu số 0008261 ngày 08/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

4. Về án phí dân sự phúc thẩm:

Miễn án phí cho bà Huỳnh Thị Q án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho bà Huỳnh Thị Q số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0010423 ngày 13/10/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

Ông Huỳnh Tấn Đ phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0010424 ngày 13/10/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

Bà Huỳnh Thị Thu H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0010425 ngày 13/10/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

Bà Huỳnh Thị Thu H1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0010426 ngày 13/10/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

88
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 152/2024/DS-PT về tranh chấp tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

Số hiệu:152/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;