TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁT HẢI, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 15/2024/HS-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 29 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2024/TLST-HS ngày 26 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2024/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2024/HSST-QĐ ngày 19 tháng 5 năm 2024 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn K, sinh ngày 16/9/1986 tại Hà Nội; nơi cư trú: Xóm C, xã Y, huyện B, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Duy S (đã chết) và bà Nguyễn Thị T; có vợ là Hán Thị T và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 25 tháng 10 năm 2023; có mặt.
- Bị hại: Ông Hoàng Văn T, sinh năm 1969; địa chỉ: Thôn Cập T, xã T, thành phố H, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.
- Đại diện hợp pháp của bị haị: Bà Nguyễn Thị L , sinh năm 1974, địa chỉ: Thôn C, xã T, thành phố H, tỉnh Hải Dương (là vợ của ông Hoàng Văn T); có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1989, địa chỉ: xã Y, huyện T, thành phố Hà Nội; vắng mặt.
- Bị đơn dân sự: Chị Đoàn Thị L, sinh năm 1983, địa chỉ: Xã B , huyện B, thành phố Hà Nội; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 22/6/2023, bị cáo điều khiển xe ô tô mang biển kiểm soát UN-11xx xuất phát từ huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội ra thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Đến khoảng 07 giờ 40 phút cùng ngày, khi đến đoạn đường giao nhau với lối vào bãi vật liệu xây dựng của Công ty Hải Phong thuộc thôn Phú Cường, xã Trân Châu, huyện Cát Hải, K phát hiện thấy xe mô tô Honda SH màu đen, biển kiểm soát: 15B2-359.xx do ông Hoàng Văn T điều khiển chạy phía trước cùng chiều bên làn đường dành cho người đi xe máy. Bị cáo điều khiển xe ô tô vượt lên, cùng lúc đó ông T điều khiển xe chuyển làn, do bị cáo không chú ý quan sát hai bên và không bấm hiệu còi báo hiệu, nên phần cánh cửa bên phải xe ô tô BKS: UN-11xx đã va chạm với tay lái bên trái xe mô tô BKS: 15B2-359.xx làm ông T ngã ra đường, bánh xe phía sau bên phải của xe ô tô của bị cáo điều khiển chèn qua đầu ông T. Hậu quả làm ông T bị thương tích phải cấp cứu tại Bệnh viện Việt Tiệp – Hải Phòng.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 668 ngày 11/10/2023 của Trung tâm pháp y Hải Phòng kết luận: Hoàng Văn T bị nhiều vết thương trên cơ thể với tổng tỷ lệ tổn thương 88%.
Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định: Hiện trường nơi xảy ra tai nạn là một đoạn đường thẳng bằng phẳng không có dốc, đường hai chiều có vạch màu vàng nét đứt ở giữa, mặt đường trải nhựa áp phan, đoạn đường lưu thông không có vật cản hay bị che khuất bởi bất cứ vật nào khác. Hướng về UBND huyện có vỉa hè, là đoạn đường vòng. Tại hiện trường có 01 xe mô tô BKS 15B2-359.xx đổ nghiêng trái, trục trước của xe cách điểm mốc là 3,56 mét, cách mép đường bên trái theo hướng về thị trấn Cát Bà là 9,76 mét, trục bánh sau xe mô tô cách điểm mốc là 4,92 mét, cách mép đường bên trái theo hướng về thị trấn Cát Bà là 8,3 mét; 01 xe ô tô BKS UN-11xx, bánh sau bên phải của xe ô tô cách mốc 23,10 mét, trục chính bánh sau bên phải cách mép đường bên trái theo hướng về thị trấn Cát Bà 4,63 mét, trục chính bánh trước bên phải xe cách mép đường bên trái theo hướng về thị trấn Cát Bà 5,20 mét; 01 vũng máu kích thước độ rộng nhất là 23 cm cách điểm mốc là 5,75 mét; 01 vết phanh trên mặt đường nằm ở làn đường bên phải của ô tô có chiều dài 1,8 mét, từ cuối vết phanh cách trục sau bánh xe mô tô biển kiểm soát 15B2-359.xx là 2,9 mét. Tại nơi vị trí xảy ra tai nạn khoảng 30m về hướng UBND xã Trân Châu là biển cảnh báo nguy hiểm giao nhau với đường không ưu tiên.
Kết quả khám nghiệm xe ô tô Hyundai, BKS UN-11xx: Tại cửa phụ (tính theo chiều từ đuôi xe về đầu xe) bên phải phát hiện dấu vết cày xước mất sơn, bám dính sơn trong diện (13 cm x 4 cm), cụ thể: Vết 01: Vết cày xước, bong tróc mất lớp sơn vỏ màu trắng, lộ phần sơn lót bên trong màu đỏ theo chiều từ trước về sau kích thước (2 cm x 1,9 cm), tâm vết cách mặt đất 93cm, cách tay nắm cửa 90 cm, cách ổ khóa cửa phụ 88 cm, cách méo dưới cửa phụ 62 cm. Vết 02: Vết bám dính dạng sơn màu đỏ không liên tục, theo chiều từ trước về sau, từ trên xuống dưới, có kích thước (9,4 cm x 0,2 cm), cách vết 01 là 4 cm, tính theo hướng từ trên xuống dưới. Vết 03: Vết bám dính tạp chất màu đen dạng sơn, theo chiều từ trước về sau, từ trên xuống dưới, có kích thước (4 cm x 0,15 cm), cách vết 02 là 0,7 cm tính theo chiều từ trên xuống dưới. Vết 04: Vết bám dính tạp chất màu dỏ dạng sơn, theo chiều từ trước về sau, từ trên xuống dưới, mờ dân về sau có kích thước (1,5 cm x 0,2) cm nằm ở đuôi vết 01 và cách vết 02 là 3,5 cm tính theo chiều từ trên xuống dưới. Hệ thống điều khiển máy, hệ thống phanh hãm, còi, đèn pha hoạt đồng B thường, các lốp xe B thường, không bơm xịt, không hư hỏng, hệ thống gương, gương chiếu hậu đầy đủ góc quan sát.
Kết quả khám nghiệm xe mô tô Honda SH, BKS 15B2-359.xx: Phần tay nắm bên trái theo chiều từ đuôi xe về đầu xe bọc ngoài lớp cao su màu đen, phần đầu tay nắm băng kim loại sơn ngoài màu đen, kích thước (13 cm x 3,5 cm), cách mặt đất 93 cm, cách mặt đồng hồ công tơ mét là 34 cm. Phần tay phanh bên trái tính theo chiều từ đuôi xe về đầu xe bằng kim loại màu bạc, kích thước (16,5 cm x 1,2 cm), phần đầu tay phanh hình cầu, cách mặt đất 93 cm, cách mặt đồng hồ công tơ mét là 38 cm. Phần đầu tay nắm bên trái bám dính tạp chất dạng sơn màu trắng và đỏ theo chiều từ sau về trước. Phần đầu tay phanh bên trái bám dính tạp chấp dạng sơn màu trắng và màu đỏ, theo chiều từ sau về trước. Ngoài ra phát hiện các dấu vết khác: Cạnh ngoài yếm xe bên trái vết cày xước trong diện (30 cm x 3 cm); Phần tay sách đuôi xe bên trái vết cày xước trong diện (8,5 cm x 2 cm); Phần hông xe bên trái vết cày xước trong diện (14 cm x 2,5 cm); Mặt ngoài ốp lọc gió vết cày xước diện (14 cm x 4,5 cm); Mặt ngoài phần để chân của người ngồi sau bên trái vết cày xước trong diện (9 cm x 4 cm). Hệ thống máy hoạt động B thường, hệ thống còi, đèn, xi nhan, phanh hoạt động B thường; Có gương chiếu hậu bên trái nhưng đã bị cong vênh.
Kết luận giám định số 210 ngày 22/10/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Dấu vết mài trượt kim loại, bề mặt trượt xước mất sơn màu trắng, mất sơn lót màu đỏ, bám dính tạp chất màu đen (dạng sơn), màu nâu (dạng gỉ sét) theo chiều từ trước về sau tại mặt ngoài cánh của bên phải trên xe ô tô mang biển kiểm soát UN-11xx phù hợp với dấu trượt xước kim loại, trượt xước mất sơn màu đen, mất gỉ xét màu nâu, bám dính tạp chất màu trắng, màu đỏ dạng sơn, theo chiều từ sau về trước tại đầu ngoài tay lái bên trái trên xe mô tô biển kiểm soát 15B2- 359.xx. Các dấu vết này được hình thành khi hai phương tiện chuyển động cùng chiều va chạm với nhau.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cát Hải đã tạm giữ 01 ô tô BKS: UN- 11xx; 01 xe mô tô BKS: 15B2-359.xx của ông Hoàng Văn T; 01 USB chứa đoạn video dài 49 giây ghi lại nội dung liên quan đến vụ án từ Công an xã Trân Châu.
Tại bản Kết luận số 554 ngày 16/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: 01 tập tin video có phần mở rộng (MP4) dung lượng 3,9MP được lưu trong 01 USB không tìm thấy dấu vết bị cắt ghép, chỉnh sửa nội dung hình ảnh.
Tại bản Kết luận số 914 ngày 29/8/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Xe khách mang BKS UN–11xx có số khung KMJRJ18SP2C909304, số máy D6CA2065322 và xe mô tô nhãn hiệu Honda mang BKS 15B2 -359.xx có số khung RLHJF4225FY041064 và số máy JF42E-1041122 đều là các số nguyên thủy không bị tẩy xóa hoặc sửa chữa các ký tự.
Kết quả kiểm tra nồng độ cồn trong hơi thở của Nguyễn Văn K ngày 22/6/2023 là: 0 mg/L; Kết quả xét nghiệm ngày 23/6/2023, không tìm thấy chất gây nghiện trong nước tiểu của Nguyễn Văn K.
Bản Cáo trạng số 12/CT-VKS ngày 23/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo điểm b khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng đã nêu, đồng thời bị cáo cũng khai nhận nội dung khi bị cáo điều khiển xe ô tô đến gần hồ nước ngọt thôn Phú Cường, xã Trân Châu, bị cáo đã không chú ý quan sát thấy biển cảnh báo nguy hiểm giao nhau với đường không ưu tiên để cho xe giảm tốc độ có thể dừng lại một cách an toàn, nên đã gây tại nạn giao thông đối với ông Hoàng Văn T. Bị cáo xác nhận việc điều tra, truy tố đối với bị cáo là đúng, không oan sai, bị cáo không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng.
Tại phiên tòa:
Đại diện hợp pháp của bị hại cho biết, bị cáo và bị đơn dân sự đã bồi thường đầy đủ cho bị hại, nhưng hiện nay gia đình vẫn cần phải có 1 đến 2 người phục vụ cho bị hại nên vẫn yêu cầu bị cáo bồi thường. Tuy nhiên, đại diện bị hại cho biết, không biết sẽ yêu cầu bồi thường là bao nhiêu và chưa có đủ tài liệu chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu của mình. Do đó, đại diện bị hại sẽ thoả thuận cùng với bị cáo và sẽ yêu cầu sau nếu không thoả thuận được.
Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận về hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Quá trình xét hỏi còn làm rõ ngoài lỗi không chú ý quan sát, khi bị cáo điều khiển xe ô tô đến gần hồ nước ngọt thôn Phú Cường, xã Trân Châu, bị cáo đã không chú ý quan sát thấy biển cảnh báo nguy hiểm giao nhau với đường không ưu tiên để cho xe giảm tốc độ có thể dừng lại một cách an toàn, nên đã gây tại nạn giao thông đối với ông Hoàng Văn T. Hành vi điều khiển xe ô tô khi tham gia giao thông gây tai nạn đã vi phạm quy định tại điểm a khoản 7 Điều 5 Nghị định 100/2019 của Chính phủ là “Không chú ý quan sát… gây tai nạn giao thông”. Như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo. Quá trình điều tra, xét hỏi tại phiên tòa hôm nay, nhận thấy bị cáo còn vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9, Điều 14 Luật Giao thông đường bộ, khoản 1, khoản 3 Điều 5 Thông tư 31/2019/TT-BGTVT ngày 29/8/2019 của Bộ Giao thông vận tải.
Khoản 1 Điều 9 Luật Giao thông đường bộ quy định: “Người tham gia giao thông phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng làn đường, phần đường quy định và phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường bộ.” Điều 5 Thông tư 31/2019/TT-BGTVT quy định:
Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phải giảm tốc độ để có thể dừng lại một cách an toàn trong các trường hợp sau:
Tại Khoản 1 quy định: “Có báo hiệu cảnh báo nguy hiểm….” Khoản 3 quy định: “Qua nơi đường bộ giao nhau cùng mức; nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt; đường vòng …”.
Đối chiếu quy định của pháp luật, hành vi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ vi phạm Luật Giao thông đường bộ dẫn đến hậu quả làm ông Hoàng Văn T bị thương tích 88% sức khỏe của bị cáo đã phạm vào tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, theo điểm b khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự. Từ những căn cứ nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử:
Về hình phạt: Áp dụng điểm b, khoản 1 Điều 260, điểm b, s, khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K từ 15 tháng đến 21 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 tháng đến 42 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Căn cứ Điều 125 BLTTHS đề nghị hủy bỏ biện pháp ngăn chặn cấm đi khởi nơi cư trú đối với bị cáo.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận, đồng thời thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng và luận tội của Viện Kiểm sát; bị cáo biết hành vi của mình là sai, là vi phạm pháp luật, bị cáo xin lỗi gia đình bị hại và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về tố tụng:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cát Hải, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
- Về tội danh:
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với Cáo trạng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua đó, đã làm rõ: Khoảng 07 giờ 40 phút ngày 22/6/2023, tại đoạn đường 356 thuộc địa phận thôn Phú Cường, xã Trân Châu, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng, bị cáo có giấy phép lái xe hạng E, đủ điều kiện lái xe theo quy định, điều khiển xe ô tô Hyundai 45 chỗ, biển kiểm soát: UN 11xx khi đến gần đến đoạn đường vòng, có biển cảnh báo nguy hiểm giao nhau với đường không ưu tiên, bị cáo đã không chú ý quan sát, không giảm tốc độ có thể dừng lại một cách an toàn, đồng thời thực hiện việc vượt xe cùng chiều khi không có tín hiệu xin vượt đã gây tai nạn với xe mô tô biển kiểm soát 15B2-359.xx do ông Hoàng Văn T điều khiển theo hướng cùng chiều, hậu quả làm ông Hoàng Văn T bị tổn thương cơ thể 88% sức khỏe.
[3] Hành vi điều khiển xe ô tô khi tham gia giao thông gây tai nạn của bị cáo đã vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Giao thông đường bộ; Khoản 1 Điều 9 quy định: “Người tham gia giao thông phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng làn đường, phần đường quy định và phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường bộ.” Ngoài ra trong quá trình tham gia giao thông, bị cáo không chú ý quan sát dẫn đến việc vượt xe cùng chiều mà không thực hiện tín hiệu xin vượt, vi phạm quy định tại khoản 1, 2 Điều 14 của Luật Giao thông đường bộ; khoản 1, 2 Điều 14 của Luật Giao thông đường bộ quy định: “Xe xin vượt phải có báo hiệu bằng đèn hoặc còi…” “xe xin vượt chỉ được vượt khi không có chướng ngại vật phía trước, không có xe chạy ngược chiều trong đoạn đường định vượt, xe chạy trước không có tín hiệu vượt xe khác và đã tránh về bên phải”.
Tuy nhiên, khi bị cáo tham gia giao thông vào khu vực có biển cảnh báo giao với đường không ưu tiên, đồng thời bị cáo nhìn thấy ông T có xu hướng chuyển làn nhưng bị cáo đã không giảm tốc độ đến mức an toàn mà vẫn giữ nguyên tốc độ di chuyển và vượt xe mô tô do ông T điều khiển và hậu quả dẫn đến vụ tai nạn giao thông.
[4] Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ mà còn xâm hại đến sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo tham gia giao thông nhưng không có ý thức chấp hành Luật giao thông đường bộ, vi phạm quy tắc giao thông. Mặt dù bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi vô ý, nhưng hành vi của bị cáo để lại những hậu quả hết sức nặng nề xâm phạm nghiêm trọng đến sức khỏe của khác.
Trong vụ án này cũng cần đánh giá lỗi một phần của bị hại, do bị hại không quan sát khi chuyển sang làn đường giành cho xe có tốc độ lớn hơn, dẫn đến việc va chạm giữa xe ôtô và xe mô tô. Vì vậy, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử sẽ xem xét cân nhắc toàn diện và đánh giá lỗi hỗn hợp trong vụ án để có thể đưa ra hình phạt đảm bảo toàn diện khách quan và đúng quy định pháp luật.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại; đại diện bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt, mặt khác bị hại cũng có một phần lỗi, nên áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng nên Hội đồng xét xử xét thấy để bị cáo cải tạo ngoài xã hội cũng đủ tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Tại cơ quan điều tra, bị cáo, bị đơn dân sự và đại diện hợp pháp của bị hại đã thoả thuận xong về phần bồi thường và đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bồi thường. Tuy nhiên, tại phiên toà hôm nay, đại diện hợp pháp yêu cầu bị cáo bồi thường, nhưng chưa xác định được mức bồi thường là bao nhiêu và các tài liệu chứng cứ, chứng minh để yêu cầu bồi thường, nên đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị được tự thoả thuận với bị cáo và nếu không thoả thuận được sẽ khởi kiện bằng một vụ án dân sự khác. Xét thấy, yêu cầu của đại diện hợp pháp của bị hại là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải tách phần yêu cầu bồi thường trong vụ án này bằng một vụ án dân sự khác nếu bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại có yêu cầu.
[8] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, nghề nghiệp chính của bị cáo là lái xe, lỗi trong vụ án là lỗi vô ý và cũng có một phần lỗi của bị hại nên Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt “cấm hành nghề hoặc thực hiện một công việc nhất định” đối với bị cáo.
[9] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cát Hải đã trả lại 01 xe mô tô Honda SH 125i, BKS 15B2-359.xx cho bà Nguyễn Thị Luyện là đại diện hợp pháp của ông Hoàng Văn T. Đối với xe ô tô khách loại 45 chỗ, nhãn hiệu Hyundai, màu trắng đỏ mang biển kiểm soát quốc gia Lào: UN-11xx, quá trình điều tra xác định xe là của anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1989, trú tại xã Yên B, huyện Thạch Thất, Hà Nội thuê của Công ty TNHH MTV vận chuyển hàng hóa hành khách nội địa – quốc tế ANONGLUCK để kinh doanh, anh B cho chị Nguyễn Thị L mượn, nên trả lại cho anh B là đúng quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với 1 USB chứa đoạn video dài 49 giây ghi lại nội dung liên quan đến vụ án, đây là nguồn chứng cứ quan trọng của vụ án nên cần được lưu trong hồ sơ vụ án.
Về các vấn đề khác:
[10] Về án phí hình sự: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.
[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự:
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, - Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 18 (mười tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Yên Bài, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 87 của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì phải thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự như sau:
“1. Người được hưởng án treo có thể vắng mặt tại nơi cư trú nếu có lý do chính đáng và phải xin phép theo quy định tại khoản 2 Điều này, phải thực hiện khai báo tạm vắng theo quy định của pháp luật về cư trú. Thời gian vắng mặt tại nơi cư trú mỗi lần không quá 60 ngày và tổng số thời gian vắng mặt tại nơi cư trú không được vượt quá một phần ba thời gian thử thách, trừ trường hợp bị bệnh phải điều trị tại cơ sở y tế theo chỉ định của bác sỹ và phải có xác nhận điều trị của cơ sở y tế đó.
2. Người được hưởng án treo khi vắng mặt tại nơi cư trú phải có đơn xin phép và được sự đồng ý của Uỷ ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục; trường hợp không đồng ý thì Uỷ ban nhân dân cấp xã phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người được hưởng án treo khi đến nơi cư trú mới phải trình báo với Công an cấp xã nơi mình đến tạm trú, lưu trú; hết thời hạn tạm trú, lưu trú phải có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc Công an cấp xã nơi tạm trú, lưu trú. Trường hợp người được hưởng án treo vi phạm pháp luật, Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó đến tạm trú, lưu trú phải thông báo cho Uỷ ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục kèm theo tài liệu có liên quan.
3. Việc giải quyết trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thực hiện theo quy định tại Điều 68 của Luật này.
4. Người được hưởng án treo không được xuất cảnh trong thời gian thử thách.”.
Huỷ bỏ các Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 10/2024/HSST-LCĐKNCT, ngày 26/02/2024 của Toà án nhân dân huyện Cát Hải đối với bị cáo Nguyễn Văn K.
Về án phí hình sự: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Bị cáo và Đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án;
- Bị đơn dân sự và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 15/2024/HS-ST về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 15/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cát Hải - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về