Bản án 15/2024/HS-ST về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 15/2024/HS-ST NGÀY 22/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 3 năm 2024 tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 129/2023/TLST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2024/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2024 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn M, tên gọi khác: Không; sinh ngày 10/4/1997 tại Thái Nguyên; nơi cư trú: Xóm T, xã N, huyện P, tỉnh Thái Nguyên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Không; con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1963 và con bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1965; bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự: Không Tiền án: 02.

+ Tại bản án số 121/2017/HSST ngày 24/11/2017, Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Tại bản án số 13/2021/HSST ngày 19/3/2021, Tòa án nhân dân huyện M, thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 19/01/2023.

Nhân thân:

+ Ngày 23/3/2017 Công an huyện P xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

+ Tại bản án số 09/2024/HSST ngày 06/3/2024, Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên xử phạt bị cáo 06 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bản án chưa có hiệu lực pháp luật.

Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện P, tỉnh Thái Nguyên trong vụ án khác (Có mặt)

2. Nguyễn Văn N, tên gọi khác: Không; sinh ngày 13/7/1997 tại Thái Nguyên; nơi cư trú: Xóm C, xã N, huyện P, tỉnh Thái Nguyên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên Chúa; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Không; con ông Nguyễn Văn L (đã chết) và con bà Lê Thị H, sinh năm 1959; bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự: Không Tiền án: 02 + Tại bản án số 07/2016/HSST ngày 26/01/2016, Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 18 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”.

+ Tại bản án số 462/2017/HSST ngày 28/12/2017, Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng Điều 50 BLHS bị cáo phải chấp hành chung cho cả hai tội là 06 năm tù. Ra trại ngày 28/02/2023.

Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện P, tỉnh Thái Nguyên. Bị cáo bị bắt từ ngày 18/10/2023 cho đến nay (Có mặt) Người bào chữa cho bị cáo N: Bà Nguyễn Thị D - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh T (Có mặt) Bị hại: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1971 - Nơi cư trú: Xóm L, xã Đ, huyện P, tỉnh Thái Nguyên (Có đơn xin xét xử vắng mặt) Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn L1, sinh năm 2003 - Nơi cư trú: Xóm C, xã N, huyện P, tỉnh Thái Nguyên (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

* Người làm chứng:

1. Bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1965 - Nơi cư trú: Xóm T, xã N, huyện P, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt)

2. Chị Dương Thị H1, sinh năm 1982 - Nơi cư trú: Xóm K, xã K, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 04/9/2023, Nguyễn Văn N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen đỏ, biển kiểm soát 20G1 -168.5x (xe của Nguyễn Văn K cho em trai Nguyễn Văn L1 quản lý và sử dụng) đi đến nhà Nguyễn Văn M để cả hai đến nhà anh Đ ở xã B, huyện p chơi. Khoảng 13 giờ 00 phút cùng ngày, sau khi ăn cơm, N và M ra về. M điều khiển xe mô tô đi đến đoạn đường thuộc xóm Đ, xã Đ, huyện p thì nhìn thấy ở sạp bán hàng ven đường có chiếc ô (loại dùng để che hàng hóa, màu xám đen, khung kim loại tròn) đặt ở cạnh chỗ bán hàng, M bàn với N lấy chiếc ô bán lấy tiền và được N đồng ý. M điều khiển xe quay lại và dừng xe gần vị trí chiếc ô, quan sát không có ai nên M xuống xe đi đến lấy chiếc ô đưa cho N đặt lên vai rồi tiếp tục lấy chiếc bàn nhựa màu đỏ để cạnh chỗ bán hàng rồi đặt lên yên xe để N giữ. Sau đó, M tiếp tục điều khiển xe mô tô chở N đi về cổng khu Công nghiệp Đ, huyện P để nhờ chiếc ô và bàn nhựa vừa trộm cắp được tại quán hàng nước của chị Dương Thị H1 (sinh năm 1982; nơi cư trú: Xóm K, xã K, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên) rồi đi về nhà. Đến khoảng 16 giờ 00 phút ngày 05/9/2023 N nhận được thông tin Công an yêu cầu giao nộp tài sản trộm cắp được nên đã đi đến nhà M rủ M đến quán nước của chị H1 lấy ô và bàn mang về nhà M, nhờ bà Nguyễn Thị Y (mẹ đẻ M) mang đến giao nộp cho Công an xã Đ, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. Đến ngày 16/10/2023 M bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, N đến trụ sở Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P để làm việc.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 95/KL -HĐĐGTS ngày 29/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện P kết luận: “01 (một) chiếc ô, phần tán ô hình tròn được làm bằng vải chống thấm nước màu đen xám có đường kính 2,6m, có 10 nan kim loại bên trong tán ô, mặt ngoài vải có in dòng chữ “MINH ĐỨC THÁI NGUYÊN, ĐT: 0973.882.xxx”; phần cán ô được làm bằng ống kim loại hình tròn rỗng màu xám, có đường kính 2,5cm, có chiều dài 1,92m. Tình trạng: sử dụng, ô vẫn sử dụng để che mưa, nắng bình thường, không có chân đã qua đế, không có bộ phận nào hư hỏng mua mới tháng 3/2022 có giá 250.000 đồng và 01 (một) chiếc bàn màu đỏ được làm bằng nhựa có 04 chân, mặt bàn có kích thước (41x62cm); chân cao 50cm. Tình trạng: đã qua sử dụng, bàn vẫn sử dụng bình thường, không có bộ phận nào hư hỏng mua mới tháng 5/2022 có giá 50.000 đồng”. Tổng cộng là 300.000 đồng. Thời điểm định giá: Tháng 9/2023.

Tại cơ quan điều tra, M và N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận định giá tài sản và các tài liệu thu thập được trong quá trình điều tra.

Bị hại, bà Nguyễn Thị T trình bày: Ngày 04/9/2023 tôi có để 01 chiếc ô làm bằng vải dù, cán kim loại để che nắng, mưa và 01 chiếc bàn nhựa màu đỏ đều đã qua sử dụng ở khu vực bán hàng, sau đó về nhà. Chiều cùng ngày khi ra bán hàng thì phát hiện chiếc ô và bàn đã bị mất. Ngày 05/9/2023, bà T đến cơ quan Công an trình báo sự việc. Bà T đề nghị được nhận lại tài sản đã mất, về trách nhiệm dân sự bà không yêu cầu bồi thường.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, anh Nguyễn Văn L1 trình bày: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, BKS 20G1 -168.5x là của anh Nguyễn Văn K (anh trai của L1) mua sau đó đã cho L1 sử dụng để làm phương tiện đi học. Việc anh K cho L1 xe mô tô cả gia đình đều biết và L1 vẫn đang sử dụng. Ngày 04/9/2023, anh N (anh trai của L1) mượn xe để đi chơi với bạn. Việc anh N sử dụng xe đề đi trộm cắp, L1 không biết. Nay anh L1 xin lại chiếc xe trên để làm phương tiện đi lại. Anh L2 không có yêu cầu gì khác.

* Vật chứng của vụ án:

+ 01 (một) chiếc ô, phần tán ô hình tròn, màu đen xám, đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc bàn màu đỏ bằng nhựa, 04 chân, đã qua sử dụng.

+ 01 (một) xe mô tô nhăn hiệu Honda Wave, màu đen đỏ, BKS 20G1 -168.5x, đã qua sử dụng;

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường.

Cáo trạng số 03/CT -VKSPB ngày 27 tháng 12 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện P đã truy tố các bị cáo M, N về tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 04/9/2023 N mượn xe mô tô BKS 20G1 -168.5x của em trai là Nguyễn Văn L1 đón Nguyễn Văn M đến nhà Đ chơi và ăn cơm. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, M điều khiển xe chở N để đi về, khi đến đoạn đường thuộc xóm Đ, xã Đ nhìn thấy có 01 chiếc ô màu xám đen M nảy sinh ý định trộm cắp nên nói với N quay lại lấy ô bán lấy tiền tiêu sài, N đồng ý. Sau đó M điều khiển xe quay lại, quan sát không có ai M lấy ô đưa cho N đặt lên vai rồi tiếp tục lấy chiếc bàn nhựa để cạnh đó đặt lên xe. M tiếp tục điều khiển xe chở N đến quán nước của chị H1 ở khu công nghiệp Đ, huyện P gửi tài sản trộm cắp được. Ngày 05/9/2023, nhận được thông báo yêu cầu giao nộp tài sản trộm cắp, N và M đi đến quán nước của chị H1 lấy ô và bàn nhựa rồi nhờ bà Y (mẹ đẻ của M) giao nộp cho Công an xã Đ. Sau đó M rời khỏi địa phương, đến ngày 16/10/2023 thì bị bắt quả tang về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, N đến Công an huyện P để làm việc.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt chính: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 (đối với bị cáo N); Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Bị cáo M từ 15 đến 18 tháng tù. Bị cáo N từ 18 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị không xem xét, giải quyết.

Về vật chứng của vụ án:

+ Trả lại cho bà T 01 (một) chiếc ô, phần tán ô hình tròn, màu đen xám, đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc bàn màu đỏ bằng nhựa, 04 chân, đã qua sử dụng.

+ Trả lại cho anh Nguyễn Văn L1 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu đen đỏ, BKS 20G1 -168.5x, đã qua sử dụng.

về án phí: Bị cáo M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo N.

Các bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử không oan, đúng người, đúng tội.

Người bào chữa cho bị cáo N: Viện kiểm sát truy tố bị cáo N về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS là có căn cứ. Đề nghị HĐXX khi lượng hình cân nhắc vai trò đồng phạm trong vụ án này hành vi của bị cáo do bị rủ rê, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấp hơn, trong suốt quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo tỏ ra rất hối hận, ăn năn hối cải, tài sản chiếm đoạt có giá trị không lớn, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS. Đề nghị HĐXX xem xét, cân nhắc quyết định mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

Phần lời nói sau cùng các bị cáo xin được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà là hoàn toàn tự nguyện, khách quan và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Vật chứng thu giữ, lời khai của bị hại, kết luận định giá tài sản và các tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra. Như vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 04/9/2023 tại khu vực xóm Đ, xã Đ, huyện P, tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn Văn M và Nguyễn Văn N lợi dụng bị hại không trông coi tài sản, các bị cáo đã lén lút trộm cắp 01 chiếc ô (loại ô dùng để che hàng hóa) và 01 chiếc bàn nhựa màu đỏ có tổng trị giá 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Tài sản các bị cáo chiếm đoạt có giá trị dưới 2.000.000 đồng, nhưng bị cáo M đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo N đã bị kết án về tội “Cướp giật tài sản” chưa được xóa án tích. Do đó, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự. Nội dung điều luật quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) ................;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự và làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Xét cần phải xét xử các bị cáo với mức án nghiêm phù hợp với hành vi các bị cáo gây ra, buộc các bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo đồng thời góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.

Xét vai trò đồng phạm của các bị cáo trong vụ án thấy: Các bị cáo tham gia với vai trò đồng phạm giản đơn không có sự phân công, tổ chức. Các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.

[4] Xét về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy: Các bị cáo có nhân thân xấu, đã bị Tòa án xét xử nhiều lần nhưng không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội thể hiện ý thức coi thường pháp luật của các bị cáo. Trong vụ án này các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ là “Gây thiệt hại không lớn”, “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo N có bố đẻ là ông Nguyễn Văn L có thời gian tham gia quân đội trong thời kỳ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc bị nhiễm chất độc hóa học, Hội đồng xét xử cân nhắc xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo N. Bị cáo M không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào, bị cáo N phải chịu một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đó là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

[5] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng” do đó các bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung bằng hình phạt tiền. Tuy nhiên các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai tại phiên tòa xác định các bị cáo nghề nghiệp không ổn định, không có tài sản riêng. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án:

+ Trả lại cho bà T 01 (một) chiếc ô, phần tán ô hình tròn, màu đen xám có đường kính 2,6m, có 10 nan kim loại bên trong tán ô; phần cán ô được làm bằng ống kim loại hình tròn rỗng màu xám, có đường kính 2,5cm, có chiều dài 1,92m, đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc bàn màu đỏ bằng nhựa, 04 chân, mặt bàn KT 41x62cm; chân cao 50cm, đã qua sử dụng.

+ Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu đen đỏ, BKS 20G1 -168.5x, đã qua sử dụng. Quá trình điều tra, xác định chiếc xe trên thuộc quyền sở hữu của anh Nguyễn Văn L1. Bị cáo N lấy xe đi thực hiện hành vi phạm tội, anh L1 không biết. Anh L2 có đơn xin lại chiếc xe để làm phương tiện đi lại, xét cần trả lại chiếc xe trên cho anh L2 là phù hợp.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu bồi thường gì khác. Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo N thuộc hộ cận nghèo, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9] Về các vấn đề khác:

+ Đối với chị Dương Thị H1 là người giữ hộ chiếc ô và bàn do M, N trộm cắp. Quá trình điều tra xác định chị H1 không biết những tài sản trên do M, N trộm cắp được mà có. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P không xem xét xử lý.

+ Đối với anh Nguyễn Văn L1 là người quản lý, sở hữu chiếc xe mô tô BKS 20G1-168.5x. Quá trình điều tra xác định anh L1 không biết N, M sử dụng chiếc xe trên để thực hiện hành vi trộm cắp, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P không xem xét xử lý đối với anh L1 là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn N phạm tội "Trộm cắp tài sản" 2. Áp dụng điều luật và mức hình phạt:

2.1. Đối với bị cáo Nguyễn Văn M: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 BLHS. Xử phạt bị cáo M 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành bản án.

2.2. Đối với bị cáo Nguyễn Văn N: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38 BLHS. Xử phạt bị cáo N 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/10/2023.

Căn cứ vào Điều 329 BLTTHS: Quyết định tạm giam bị cáo N 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự:

3.1. Trả lại cho bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1971 - nơi cư trú: Xóm L, xã Đ, huyện P, tỉnh Thái Nguyên 01 (một) chiếc ô, phần tán ô hình tròn được làm bằng vải chống thấm nước màu đen, xám có đường kính 2,6m, có 10 nan kim loại bên trong tán ô, mặt ngoài vải có in dòng chữ “MINH ĐỨC THÁI NGUYÊN, ĐT: 0973.882.xxx”; phần cán ô được làm bằng ống kim loại hình tròn rỗng màu xám, có đường kính 2,5cm, có chiều dài 1,92m, đã qua sử dụng,không có chân đế, ô được dán giấy có dấu và chữ ký của các thành phần tham gia và 01 (một) bàn nhựa màu đỏ, 04 chân, mặt bàn có kích thước (41x62)cm; chân cao 50cm, đã qua sử dụng.

3.2. Trả lại cho anh Nguyễn Văn L1, sinh năm 2003 - nơi cư trú: Xóm C, xã N, huyện P, tỉnh Thái Nguyên 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX; màu sơn đen đỏ; BKS 20G1 - 168.5x; số khung RLHJC5244DY006416; số máy JC52E6008525; dung tích xilanh: 109,1; đăng ký lần đầu ngày 19/9/2013 do Công an huyện P cấp; xe có đủ gương chiếu hậu cả hai bên, khi giao nhận xe không kiểm tra tình trạng bên trong xe và săm lốp bên ngoài xe cũ đã qua sử dụng (có 01 chìa khóa xe).

(Tình trạng vật chứng như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 16/01/2024 giữa Công an huyện P và Chi cục thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Thái Nguyên).

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn M phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước. Miễn án phí cho bị cáo Nguyễn Văn N.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2024/HS-ST về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:15/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Bình - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;