Bản án 15/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA KAR, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 15/2024/HS-ST NGÀY 09/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ea Kar xét xử sơ thẩm trực tuyến, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 10/2024/HSST ngày 13 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2024/QĐXXST- HS ngày 26 tháng 3 năm 2024, đối với bị cáo:

VÕ THÀNH L.

Sinh ngày 19 tháng 02 năm 2006; tại: Đắk Lắk.

Nơi cư trú: Thôn X, xã Y, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Võ Văn A, sinh năm 1976 và con bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1986; bị cáo chưa có vợ, con.

- Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/12/2023. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Ea Kar. Có mặt tại điểm cầu thành phần.

- Người bào chữa cho bị cáo Võ Thành L: Bà Nguyễn Thị X - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đắk Lắk.

Địa chỉ: Số 39 L, phường T, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Hoàng Văn L1. Sinh năm 2007.

Địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

Người giám hộ cho người liên quan anh Hoàng Văn L1: Bà Hoàng Thị L2.

Sinh năm 1984.

Địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Ông Trần Thanh K. Sinh năm 1962.

Địa chỉ: Tổ dân phố X, thị trấn Y, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.

- Những người tiến hành tố tụng hỗ trợ tại điểm cầu thành phần:

Bà Giản Thị C. Chức vụ: Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk.

Ông Phạm Xuân Q. Chức vụ: Thư ký Tòa án nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do bản thân là đối tượng nghiện ma tuý nên vào khoảng 13 giờ ngày 19/12/2023, Võ Thành L điều khiển xe mô tô biển số 47AB - 537.xx đi từ nhà đến thị trấn Ea Kar, huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk mục đích để mua ma tuý đá về sử dụng. Đến 14 giờ 20 phút cùng ngày, L đi đến khu vực thị trấn Ea Kar, huyện Ea Kar gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) mua ma tuý với giá 300.000 đồng. Sau khi mua ma tuý xong, L mở ra kiểm tra và biết là ma tuý đá nên L cầm gói ma tuý bỏ vào trong túi quần phía trước bên phải đang mặc trên người và tiếp tục điều khiển xe mô tô đi lên hướng thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Đến khoảng 14 giờ 40 phút cùng ngày, khi L đi đến ngã tư đèn xanh- đỏ thuộc tổ dân phố 3B, thị trấn Ea Kar, huyện Ea Kar thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an huyện Ea Kar bắt quả tang. Kiểm tra trên người Võ Thành L phát hiện, thu giữ 01 gói giấy ny lon màu trắng (túi zíp) bên trong đựng chất dạng tinh thể trong suốt, L cất giấu trong túi quần phía trước bên phải đang mặc trên người.

Tại biên bản kết quả xét nghiệm chất ma tuý ngày 19/12/2023 của Võ Thành L kết quả Dương tính (+) với chất ma tuý trong cơ thể.

Tại bản kết luận giám định số 40/KL-KTHS ngày 28/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn dạng tinh thể trong suốt bên trong 01 gói nylon màu trắng (túi zip) được niêm phong gửi giám định là ma tuý, có khối lượng: 0,3537 gam, loại Methamphetamine. Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,3202 gam và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu.

Thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật:

- 01 gói nylon màu trắng (dạng túi zip) bên trong đựng chất rắn dạng tinh thể trong suốt.

- 01 xe mô tô biển số 47AB – 537.xx, nhãn hiệu Daelimikd, số loại SI2, màu sơn: Đen.

Tại bản cáo trạng số 16/CT-VKS ngày 12 tháng 3 năm 2024 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Ea Kar đã truy tố bị cáo Võ Thành L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Kar vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Võ Thành L từ 09 (chín) đến 12 (mười hai) tháng tù.

- Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Đề nghị tịch thu, tiêu hủy: Đối với 0,3202 gam ma túy, loại Methamphetamine và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu (mẫu vật còn lại sau giám định); là vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội và không có giá trị sử dụng.

+ Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Kar đã ra Quyết định xử lý vật chứng số: 181 ngày 01/3/2024 trả lại cho anh Hoàng Văn L1 01 xe mô tô biển số 47AB – 537.xx. Đây là tài sản thuộc sở hữu của anh Hoàng Văn L1. Quá trình điều tra xác định, vào ngày 19/12/2023, anh L1 cho L mượn xe đi công việc riêng và không biết L điều khiển xe đi mua ma tuý. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Kar trả lại cho anh Hoàng Văn L1 là đúng quy định của pháp luật.

- Người bào chữa cho bị cáo Võ Thành L, Trợ giúp viên pháp lý, bà Nguyễn Thị X: Đồng ý với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Kar và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà đại Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng đối với bị cáo Võ Thành L. Tuy nhiên, mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Bởi lẽ, bị cáo có nhân thân tốt, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thật sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người chưa thành niên nên nhận thức pháp luật còn hạn chế; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội, hoàn cảnh của bị cáo; chính sách pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội, xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị, để bị cáo có điều kiện cải tạo, giáo dục trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ diễn biến hành vi phạm tội như trong bản Cáo trạng; bị cáo không tranh luận, bào chữa gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Ea Kar, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Kar, Kiểm sát viên trong qúa trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Võ Thành L tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của bị cáo, người liên quan, người chứng kiến trong quá trình điều tra, vật chứng đã thu được; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm, diễn biến hành vi bị cáo đã thực hiện nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Do ý thức coi thường pháp luật, coi thường sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất gây nghiện, là những người nghiện ma túy nên vào khoảng 14 giờ 40 phút ngày 19/12/2023, tại khu vực ngã tư đèn xanh - đỏ, thuộc tổ dân phố 3B, thị trấn Ea Kar, huyện Ea Kar, khi Võ Thành L đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,3537 gam ma tuý, loại Methampetamine nhằm mục đích để sử dụng thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Ea Kar phát hiện bắt quả tang.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Kar đã truy tố bị cáo Võ Thành L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 249 Bộ luật Hình sự, quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

……”.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý nhà nước về ma túy. Khi phạm tội, bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức, điều khiển hành vi, bị cáo biết và buộc phải biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào đều là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị pháp luật trừng trị. Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, nên biết rõ ma túy là chất gây nghiện, có tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe của con người, đồng thời cũng là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, là nỗi nhức nhối của toàn xã hội. Nhưng do ý thức coi thường pháp luật, lối sống hưởng thụ, thiếu ý thức tu dưỡng đạo đức nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội.

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mục đích và hành vi phạm tội của bị cáo; phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng trừng trị, cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo; đồng thời đủ sức răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội, trong công cuộc phòng, chống ma túy.

Tuy nhiên, xét về nhân thân, bị cáo là công dân lao động, chưa có tiền án, tiền sự; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thật sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn (thuộc diện hộ cận nghèo). Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội khi chưa thành niên, mới 17 tuổi 10 tháng. Nên cần áp dụng Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự về chính sách hình sự đối với người chưa thành niên để xem xét áp dụng, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện sự khoan hồng, truyền thống nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Từ những căn cứ, xem xét, đánh giá và nhận định trên, xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy phù hợp, nên cần chấp nhận.

- Trong vụ án này, đối với đối tượng người đàn ông bán ma túy cho Võ Thành L vào ngày 19/12/2023 (theo lời khai của L), hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Kar đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên chưa có căn cứ để xử lý.

[3] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu, tiêu hủy: 0,3202 gam ma túy, loại Methamphetamine và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu (mẫu vật còn lại sau giám định); là vật chứng của vụ án.

+ Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Kar đã ra Quyết định xử lý vật chứng số: 181 ngày 01/3/2024 trả lại cho anh Hoàng Văn L1 01 xe mô tô biển số 47AB – 537.xx. Đây là tài sản thuộc sở hữu của anh Hoàng Văn L1. Quá trình điều tra xác định, vào ngày 19/12/2023, anh L1 cho bị cáo L mượn xe đi công việc riêng và không biết L điều khiển xe đi mua ma tuý. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Kar trả lại cho anh Hoàng Văn L1 là phù hợp.

[4] Về án phí: Tại phiên tòa, bị cáo và người bào chữa cho bị cáo xin miễn án phí. Xét thấy, bị cáo Võ Thành L là người thuộc hộ cận nghèo. Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;

[1] Tuyên bố:

Bị cáo Võ Thành L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt Võ Thành L: 01 (một) năm tù.

Thời gian chấp hành hình phạt tù: Kể từ ngày bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam, ngày 19/12/2023.

[2] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu, tiêu hủy: 0,3202 gam ma túy, loại Methamphetamine và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu (mẫu vật còn lại sau giám định); là vật chứng của vụ án.

(Đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22/3/2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Kar với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea Kar).

+ Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Kar đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại 01 xe mô tô biển kiểm soát 47AB – 537.xx cho anh Hoàng Văn L1 là chủ sở hữu hợp pháp.

(Đặc điểm như trong Biên bản về việc trả lại tài sản, đồ vật, tài liệu ngày 01/3/2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea Kar với anh Hoàng Văn L1).

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Võ Thành L được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea Kar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;