TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH HÀ GIANG
BẢN ÁN 15/2024/HS-ST NGÀY 12/04/2024 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 12 tháng 04 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2024/TLST- HS ngày 06 tháng 03 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2024/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 03 năm 2024 đối với bị cáo:
Vương Quốc T, sinh ngày 06 tháng 9 năm 1976 tại huyện V, tỉnh G; nơi đăng ký HKTT: Thôn D, xã B, huyện V, tỉnh G; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 03/12; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vương Quốc Th, sinh năm 1954 và bà Triệu Thị H, sinh năm 1955; có vợ là Bàn Thị Gi (đã ly hôn) và 02 con: Con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 22/04/2002 Công an huyện V ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 31/QĐ-SPVPHC đối với Vương Quốc T bằng hình thức phạt tiền 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”; Ngày 10/05/2002 Uỷ ban nhân dân tỉnh H ra Quyết định số 1097/QĐ-UB về việc “Áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục” có thời hạn 24 tháng đối với Vương Quốc T.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/01/2024. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh G. Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Bà Trần Thị Phương Nh - Trợ giúp viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh G. Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Anh Vương Tuấn L, sinh năm 1995. Vắng mặt.
- Anh Phùng Văn S, sinh năm 1995. Có mặt.
- Anh Hoàng Mai Th, sinh năm 1991. Vắng mặt - Ông Hoàng Văn H, sinh năm 1969. Vắng mặt.
- Anh Trần Văn M, sinh năm 1980. Vắng mặt.
Cùng địa chỉ tại: Thôn D, xã B, huyện V, tỉnh G.
- Anh Nguyễn Quốc C, sinh năm 1989; nơi cư trú: Tổ 11, thị trấn V, huyện V, tỉnh G. Vắng mặt.
Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn T1; chị Vương Thị Đ; anh Hoàng Văn Ch; anh Vi Văn Th1; chị Hà Thị H1; anh Hồ Văn Th2, chị Giàng Thị T2. Vắng mặt. Anh Sú Xín L. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Sáng ngày 17/6/2023, Vương Tuấn L (sinh năm 1995, nơi cư trú: Thôn D, xã B, huyện V, tỉnh G) phát hiện gia đình bị mất trộm 05 (năm) vỏ bình ga loại 12kg để trước cửa kho hàng của gia đình. Qua kiểm tra camera của gia đình L phát hiện vào rạng sáng ngày 13/6/2023, Vương Quốc T một mình đến và trộm cắp 03 (ba) vỏ bình ga nên L đã đến Công an xã B trình báo sự việc. Quá trình xác minh, xác định sáng ngày 17/6/2023 T đã bán cho Phùng Văn S (sinh năm 1995, nơi cư trú: Thôn D, xã B, huyện V, tỉnh G) 02 (hai) vỏ bình ga loại 12kg với giá là 125.000 đồng (Một trăm hai mươi lăm nghìn đồng). Sau khi xác định T có liên quan đến vụ việc trộm cắp tài sản (vỏ bình ga) tại nhà Vương Tuấn L, Công an xã B đã phân công Hoàng Mai Th là cán bộ Công an xã B cùng Hoàng Văn H là Công an viên bán chuyên trách thôn D, xã B mời Vương Quốc T đến trụ sở Công an xã B để làm việc theo giấy mời số: 39/GM-CAX, ngày 17/06/2023 của Công an xã B. Khoảng 15 giờ 50 phút cùng ngày, Th điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 23B1 - 005.xx (là tài sản của Công an xã B), H điều khiển xe mô tô cá nhân đến đỗ xe cách lán của T khoảng 10m (lúc này cả Th và H đều không mặc quân phục). Sau đó cả hai người đi bộ vào lán của Th, khi cách lán của Th khoảng 04m thì nghe thấy Th trong nhà nói ra “chúng mày đến nhà tao làm gì, tao có tội gì đâu", "mày là thằng nào” đồng thời ném một hộp nhựa màu xanh về phía Th nhưng không trúng. Tiếp đó Th cầm 01 con dao từ trong lán chạy ra và hướng về phía Th chém khiến Th phải lùi lại né tránh, Th tiếp tục chửi bới và vung dao nhằm về phía Th chém phát thứ hai, Th tiếp lục lùi lại để né tránh nên không trúng. T tiếp tục tiến đến vung dao chém về phía người Th phát thứ ba, lúc này Th đang quay người sang phải để bỏ chạy thì bị T chém vào vai trái gây rách da, chảy máu. Khi Th bỏ chạy T vung dao chém về phía người H thì H bỏ chạy, T đuổi theo chém nhưng không đuổi được. Sau đó T quay lại lán, khi đi qua xe mô tô 23B1 - 005.xx, T vung dao chém vỡ kính đèn xi nhan bên phải của xe rồi cầm theo dao đi đến nhà ông Ngườm Văn A (sinh năm 1971, nơi cư trú: Thôn D, xã B, huyện V, tỉnh G) mua rượu. Sau khi sự việc xảy ra Th gọi điện cho Nguyễn Quốc C là Trưởng Công an xã B báo cáo nội dung sự việc. Sau đó Cường cùng Trần Văn M là trưởng thôn D, xã B đến lập biên bản ghi nhận nội dung sự việc, lập tổ công tác gồm: C (chủ trì), Th, H, M cùng nhau đi tìm và mời Vương Quốc T về trụ sở để làm việc. Quá trình thực hiện nhiệm vụ tất cả đều mặc quân phục, trang phục theo quy định. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày khi tổ công tác tìm kiếm Th tại khu vực đường liên xã B đi xã Ng, trước cửa nhà Hoàng Văn Ch (sinh năm 1982, nơi cư trú: Thôn D, xã B, huyện V, tỉnh G) thì phát hiện T tay phải cầm dao đi bộ từ hướng trung tâm xã B đến. Khi cách vị trí tổ công tác đứng khoảng 05m thì T hô lên “Chúng mày định bắt tao à” đồng thời vung dao lao đến nhằm C chém, C lùi tránh nên T không chém trúng. Lúc này T đứng sau C rút súng bắn đạn cao su nổ một phát súng chỉ thiên để cảnh cáo nhưng T không dừng lại mà vung dao lao đến nhằm Th chém. Th nhảy lùi ra phía sau né tránh được. T tiếp tục vung dao lao đến vị trí C đứng định chém C thì Th tiếp tục nổ một phát súng chỉ thiên để cảnh cáo nhưng T không dừng lại mà tiếp tục lao về phía C, lúc này C dùng bình xịt hơi cay xịt về phía T rồi C, Th và H lao đến quật ngã T xuống đường nhựa và khống chế và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Thinh về hành vi chống người thi hành công vụ. Quá trình bắt giữ, khống chế T đã vùng vằng, chống đối nên vùng mặt bên phải của T va chạm với mặt đường nhựa dẫn đến bị rách da, cháy máu nên Công an xã B đã đưa T đến trạm y tế xã B sơ cứu.
Tại Kết luận định giá tài sản ngày 20 tháng 9 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện V, tỉnh G kết luận:
- 01 (một) vỏ bình gas màu xanh, trên vỏ có ghi chữ “ĐÔNG TÙNG GAS” - Loại 12kg có giá trị là: 350.000 đồng (Ba trăm năm mươi nghìn đồng);
- 01 (một) vỏ bình gas màu xanh, trên vỏ có ghi chữ “H GAS PETROLHG” - Loại 12kg có giá trị là: 350.000 đồng (Ba trăm năm mươi nghìn đồng);
Tại Kết luận định giá tài sản ngày 20 tháng 9 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện V, tỉnh G kết luận:
Giá trị thiệt hại của các bộ phận do bị hủy hoại của xe mô tô biển kiểm soát: 23B1 - 005.xx; Nhãn hiệu: HONDA; Số loại: FUTURE FI; Màu sơn: Trắng - Nâu - Đen; Số máy: JC90E00788XX; Số khung: RLHJC7651LY0594XX là:
300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).
Tại Kết luận định giá tài sản ngày 02 tháng 02 năm 2024 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện V, tỉnh G kết luận: 03 (Ba) vỏ bình gas màu xanh - Loại 12kg có giá trị là: 1.050.000 đồng (Một triệu, không trăm năm mươi nghìn đồng) Tại Bản kết luận giám định tổn thương trên cơ thể người sống số:
64/KLTTCT-TTPY ngày 14 tháng 7 năm 2023 của Trung tâm pháp y tỉnh H kết luận: Căn cứ Thông tư 22/2019/TT-BYT, ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Bộ y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Hoàng Mai Th tại thời điểm giám định là: 02% (Hai phần trăm).
Tại Bản kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số: 187/KLGĐ ngày 17 tháng 11 năm 2023 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực miền núi phía bắc kết luận: Tại thời điểm xảy ra sự việc khoảng tháng 6/2023, Vương Quốc T không bị bệnh Tâm thần. Vương Quốc T đủ khả năng nhận thức và đủ khả năng điều khiển hành vi.
Tại Bản kết luận giám định số 206/KL-KTHS ngày 28 tháng 06 năm 2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh G kết luận: Trong mẫu máu thu được của Vương Quốc T, sinh năm 1976, trú tại thôn D, xã B huyện V, tỉnh G gửi giám định có Ethanol (cồn), nồng độ Ethanol (cồn) trong máu là 296,287mg/100ml (hai trăm chín mươi sáu phẩy hai trăm tám mươi bảy miligam trên một trăm mililit).
Tại Bản kết luận giám định số: 1554/KL-KTHS ngày 21 tháng 12 năm 2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: Không phát hiện dấu vết cắt ghép chỉnh sửa nội dung trong tệp video ký hiệu A1, A2 lưu trữ trong USB ký hiệu M1, gửi giám định.
Vật chứng của vụ án:
- 01 (một) con dao mũi bằng đã qua sử dụng, lưỡi dao bằng kim loại chỗ rộng nhất 6,7cm, chuôi gỗ, tổng chiều dài cả cán 56cm;
- 02 (hai) vỏ bình ga loại 12kg (mười hai ki lô gam);
Về phần dân sự: Quá trình điều tra đại diện chủ sở hữu hợp pháp của xe mô tô biển kiểm soát 23B1 – xxxxx là ông Nguyễn Quốc C, Trưởng Công an xã B, ông Vương Tuấn L là chủ sở hữu của 03 (ba) vỏ bình ga mà Vương Quốc T trộm cắp ngày 13/06/2023, anh Hoàng Mai Th là người bị T dùng dao chém và ông Phùng Văn S là người mua bình ga của T không đề nghị T phải bồi thường thiệt hại về phần dân sự, do đó Cơ quan điều tra không xem xét giải quyết.
Bản Cáo trạng số 13/CT-VKS-VX ngày 06/03/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh G truy tố bị cáo Vương Quốc T về tội "Chống người thi hành công vụ" theo khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Vương Quốc T không thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản là 03 (ba) vỏ bình ga của anh Vương Tuấn L, khẳng định bị cáo chỉ nhặt được các vỏ bình ga tại vệ đường. Bị cáo T không nhớ lý do vì sao lại tấn công những người thi hành công vụ, nhưng bị cáo thừa nhận có 02 (hai) lần thực hiện hành vi dùng dao chém anh Th, anh H, anh C và Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh G truy tố bị cáo về tội “Chống người thi hành công vụ” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Người làm chứng anh Sú Xín L khai báo những tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, thống nhất với các lời khai trước đó có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với lời khai của những người làm chứng khác trong giai đoạn điều tra.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Phùng Văn S trình bày chi tiết các tình tiết liên đến hành vi phạm tội của bị cáo, phù hợp với diễn biến tại phiên tòa và tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, không đề nghị bị cáo T phải bồi thường cho anh số tiền 125.000đ đã mua vỏ bình ga.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh G sau phần xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Vương Quốc T về tội danh, điều luật như nội dung cáo trạng đã nêu. Đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vương Quốc T phạm tội "Chống người thi hành công vụ".
- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 330; Điều 38; điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Vương Quốc T từ 24 đến 30 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (ngày 30/01/2024).
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao mũi bằng đã qua sử dụng, lưỡi dao bằng kim loại chỗ rộng nhất 6,7cm, chuôi gỗ, tổng chiều dài cả cán 56cm. Trả lại cho anh Vương Tuấn L 02 (hai) vỏ bình ga loại 12kg (mười hai ki lô gam).
(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V và Chi cục Thi hành án dân sự huyện V ngày 06/03/2024).
- Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa ông Nguyễn Quốc C, ông Vương Tuấn L, anh Hoàng Mai Th và ông Phùng Văn S không đề nghị bị cáo phải bồi thường thiệt hại về phần dân sự, do đó không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết.
- Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Điều 12, Điều 14, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Đề nghị miễn toàn bộ án phí cho bị cáo theo quy định của pháp luật.
- Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự.
Bị cáo Vương Quốc T nhất trí và không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên.
Ý kiến của người bào chữa: Bị cáo T là người đồng bào dân tộc, sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; đã ly hôn; sống một mình; thường xuyên sử dụng Ethanol (cồn) khiến bản thân dần mất đi nhận thức và điều khiển hành vi, ảnh hưởng đến khả năng nói và ghi nhớ sự việc. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, chưa có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận phạm tội. Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 330; Điều 38; Điều 50; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Vương Quốc T 12 đến 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung; miễn toàn bộ án phí đối với bị cáo.
Bị cáo không có ý kiến bổ sung và nhất trí với lời bào chữa của của trợ giúp viên pháp lý.
Lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo được sớm trở về đoàn tụ với gia đình và xã hội, làm một công dân lương thiện.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều được thực hiện theo trình tự, thủ tục theo đúng quy định của pháp luật. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng vắng mặt. Xét thấy, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt và những người làm chứng vắng mặt đã có lời khai ổn định tại giai đoạn điều tra nên việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng tới việc xét xử vụ án. Do vậy căn cứ Điều 292, Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử thảo luận và tiếp tục xét xử vụ án.
[3] Về căn cứ định tội, định khung hình phạt: Tại phiên tòa bị cáo Vương Quốc T chưa thành khẩn khai báo, luôn thể hiện không nhớ các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Hội đồng xét xử căn cứ vào quá trình thẩm vấn công khai tại phiên tòa và các lời khai của bị cáo tại Cơ quan Cảnh sát điều tra (BL 194-205; 207-210), lời khai của người có quyền lợi, liên quan: Anh Vương Tuấn L, anh Phùng Văn S, (BL 239-244; 245-252), ông Trần Văn M (BL 259-265); Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn T (BL 253-258), chị Vương Thị Đ, anh Sú Xín L, anh Hoàng Văn Ch, anh Vi Văn T1, chị Hà Thị H1, chị Giàng Thị T2, ông Hồ Văn Th1 (BL 266-308); Biên bản khám nghiệm hiện trường, Sơ đồ hiện trường, Bản ảnh hiện trường (BL 71-72, 86-90); Quyết định thu giữ vật chứng, kết luận giám định cùng toàn bộ tài liệu, chứng cứ khác lưu trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 13/06/2023 bị cáo Vương Quốc T đã có hành vi trộm cắp của anh Vương Tuấn L 03 (ba) vỏ bình ga. Ngày 17/06/2023 khi anh Hoàng Mai Th là cán bộ Công an xã B đến đưa giấy mời của Công an xã B mời bị cáo T đến trụ sở Công an xã B để làm việc nhưng đã bị T dùng dao chém gây thương tích ở bả vai bên trái; dùng dao chém gây hư hỏng xe mô tô biển kiểm soát 23B1 - 005.xx là tài sản của Công an xã B. Sau khi sự việc xảy ra Công an xã B đã tổ chức lực lượng do anh Nguyễn Quốc C là Trưởng Công an xã chủ trì, đi tìm và mời T về trụ sở để làm việc đã bị T dùng dao tấn công, ngăn cản Công an xã B thực hiện nhiệm vụ. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo T đã đủ yếu tố cấu thành tội "Chống người thi hành công vụ" được quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh G đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[4] Điều 330. Tội chống người thi hành công vụ:
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”
[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn của cán bộ và cơ quan nhà nước, làm giảm hiệu lực quản lý của cơ quan, tổ chức, gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội bị cáo hoàn toàn đủ khả năng nhận thức, bị cáo biết và buộc phải biết hành vi chống người thi hành công vụ là vi phạm pháp luật. Bị cáo có nhân thân xấu, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, vì coi thường pháp luật nên bị cáo đã có hành vi dùng vũ lực và gây thương tích đối với người đang thi hành công vụ. Hành vi chống người thi hành công vụ trong địa bàn huyện V và trên địa bàn tỉnh G chung thời gian gần đây có dấu hiệu gia tăng loại tội phạm này, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định thì mới có tác dụng răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành người biết tuân thủ pháp luật và có tác dụng phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.
[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo chưa thành khẩn khai báo, nhưng thừa nhận về hành vi phạm tội của mình, tỏ ra ăn năn hối cải. Do vậy, bị cáo T chỉ được hưởng một tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa ông Nguyễn Quốc C - Đại diện chủ sở hữu hợp pháp của xe mô tô biển kiểm soát 23B1 – xxxxx, ông Vương Tuấn L - Chủ sở hữu của 03 (ba) vỏ bình ga mà Vương Quốc T trộm cắp ngày 13/06/2023, anh Hoàng Mai Th - Người bị T dùng dao chém và ông Phùng Văn S - là người mua bình ga của Thinh không đề nghị bị cáo phải bồi thường thiệt hại về phần dân sự. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết là đúng quy định của pháp luật.
[9] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Cần tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao mũi bằng đã qua sử dụng, lưỡi dao bằng kim loại chỗ rộng nhất 6,7cm, chuôi gỗ, tổng chiều dài cả cán 56cm là vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo và không còn giá trị sử dụng. Trả lại 02 (hai) vỏ bình ga loại 12kg cho anh Vương Tuấn L.
[10] Các tình tiết khác có liên quan đến nội dung vụ án: Đối với hành vi trộm cắp tài sản và cố ý làm hư hỏng tài sản của bị cáo Vương Quốc T, do giá trị tài sản bị trộm cắp và làm hư hỏng chưa đủ truy cứu trách nhiệm hình sự, nên Cơ quan điều tra đã xử lý hành chính là đúng quy định của pháp luật, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
[11] Đối với hành vi bị cáo Vương Quốc T dùng dao chém gây thương tích cho anh Hoàng Mai Th: Ngày 01/02/2024 anh Hoàng Mai Th có đơn đề nghị không khởi tố vụ án hình sự, do đó Cơ quan điều tra không xem xét xử lý hình sự đối với Vương Quốc T là có căn cứ và đúng quy định.
[12] Đối với anh Phùng Văn S: Khi mua vỏ bình ga, anh S không biết 02 vỏ bình ga mua của Vương Quốc T là do bị cáo T trộm cắp mà có, do đó cơ quan điều tra không xem xét, xử lý là đúng quy định của pháp luật.
[13] Đối với thương tích của bị cáo Vương Quốc T: Quá trình Công an xã B mời bị cáo T về trụ sở để làm việc nhưng bị cáo không tuân thủ, chống đối và liên tục dùng dao tấn công lực lượng Công an xã B, lực lượng Công an đã phải dùng vũ lực để khống chế bị cáo dẫn đến gây ra thương tích cho bị cáo T.
Tại khoản 1, Điều 24 Bộ luật hình sự quy định:
“Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm”.
[14] Xét thấy việc sử dụng vũ lực của Công an xã B là cần thiết, đúng quy định pháp luật, nhằm mục đích chấm dứt hành vi phạm tội của bị cáo T do đó Hội đồng xét xử không xem xét là có căn cứ.
[15] Về án phí: Bị cáo Vương Quốc T là người dân tộc, sinh sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và bị cáo có đơn xin miễn án phí. Do đó căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự, Điều 12; Điều 14 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 “Quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án” miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo T.
[16] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự.
[17] Ý kiến của trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật do đó được chấp nhận.
[17] Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Vương Quốc T phạm tội "Chống người thi thành công vụ".
Áp dụng khoản 1 Điều 330; Điều 38; Điều 50; điểm i khoản 1 Điều 51;
Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 12; Điều 14 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Xử phạt bị cáo Vương Quốc T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (ngày 30/01/2024). Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.
2. Vật xử lý chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao mũi bằng đã qua sử dụng, lưỡi dao bằng kim loại chỗ rộng nhất 6,7cm, chuôi gỗ, tổng chiều dài cả cán 56cm. Trả lại cho anh Vương Tuấn L, sinh năm 1995; nơi cư trú: Thôn D, xã B, huyện V, tỉnh G 02 (hai) vỏ bình ga loại 12kg (mười hai ki lô gam).
(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an huyện V và Chi cục Thi hành án dân sự huyện V ngày 06/03/2024).
3. Án phí: Bị cáo Vương Quốc T không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Trường hợp vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 15/2024/HS-ST về tội chống người thi hành công vụ
Số hiệu: | 15/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vị Xuyên - Hà Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về