Bản án 15/2021/HS-ST ngày 15/06/2021 về tội buôn bán hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 15/2021/HS-ST NGÀY 15/06/2021 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 15 tháng 6 năm 2021, tại Phòng xử án, Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 15/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Hồng S, sinh ngày 25/6/1992; nơi sinh: Tỉnh Đắk Lắk; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: Thôn H, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn lớp: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn L, sinh năm 1970 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1970; vợ: Hoàng Thị G, sinh năm 1996; bị cáo có 01 con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không.

Về nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 06/2016/HSST ngày 03/02/2016 của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk đã xử phạt Trần Hồng S 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Ngày 18/12/2016 bị cáo chấp hành xong hình phạt.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/01/2021 cho đến ngày 29/01/2021 thì được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, hiện bị cáo đang tại ngoại - có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Chị Hoàng Thị B, sinh năm 1993- vắng mặt. Nơi cư trú: Thôn H, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

2. Ông Hoàng Xuân H, sinh năm 1959- có mặt. Nơi cư trú: Thôn B, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Người làm chứng:

1. Chị Hoàng Thị G, sinh năm 1996- có mặt.

Nơi cư trú: Thôn H, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

2. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1970- có mặt.

Nơi cư trú: Thôn H, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

3. Anh Lê Ngọc Th, sinh năm 1982- có mặt.

Nơi cư trú: Thôn T, xã C, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Trần Hồng S và vợ là chị Hoàng Thị G làm công nhân và tạm trú tại thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Phước. Vào khoảng giữa tháng 12 năm 2020, trên đường đi làm về, trong khi đang dừng đèn đỏ tại ngã tư trước khu công nghiệp M – H thuộc thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Phước thì bị cáo S gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi bị cáo S có mua pháo nổ về chơi tết không và được bị cáo S đồng ý mua 04 hộp pháo loại 49 ống giá 320.000 đồng/hộp, 01 túi pháo bi giá 110.000 đồng, tổng số tiền mua pháo là 1.390.000 đồng, với mục đích mang về nhà để đốt vào dịp tết Nguyên đán Tân Sửu. Số pháo trên được bị cáo mang về phòng trọ của mình cất giấu. Khi biết gia đình mình đã viết cam kết không đốt pháo trong dịp tết Nguyên đán, nên bị cáo S nảy sinh ý định bán số pháo này để kiếm lời.

Thông qua bạn bè giới thiệu, S sử dụng tài khoản Facebook cá nhân tên “Trần S” của mình tìm và gia nhập nhóm mang tên “Hội pháo hoa”, đồng thời đăng bài trên nhóm với nội dung là: Có nhu cầu bán pháo tại khu vực B, K, nếu ai muốn mua thì liên hệ. Đến ngày 19/01/2021, có tài khoản cá nhân mang tên “B” đã liên hệ với S đồng ý mua 04 hộp pháo loại 49 ống với giá 1.400.000 đồng/1 hộp và 01 túi pháo bi với giá 600.000 đồng, với tổng số tiền là 6.200.000 đồng và hẹn địa điểm giao hàng tại khu vực chùa Đ, thuộc tổ dân phố X, phường Đ, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. Để giao được pháo cho người tên “B”, S đã điện thoại cho chị Hoàng Thị B là chị vợ của bị cáo S, để nhờ chị B nhận thùng hàng và nói với chị B là phụ tùng xe máy gửi cho người ở thị xã B nên chị B đồng ý nhận thùng hàng giao giúp bị cáo S. Đến tối ngày 19/01/2021, bị cáo S nói với vợ S là chị Hoàng Thị G gọi điện cho nhà xe khách P (chạy từ huyện K – thành phố Hồ Chí Minh và ngược lại) để gửi thùng hàng phụ tùng xe máy về cho chị B. Chị G đồng ý và sử dụng điện thoại của mình gọi đến số 0844317xxx của nhà xe P thì gặp anh Lê Ngọc Th, nhân viên quản lý nhà xe để hẹn thời gian, địa điểm gửi thùng hàng tại ngã ba đường tránh C, tỉnh Bình Phước. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày xe ô tô đến chị G đã gửi thùng hàng cho anh Th và trả tiền cước 40.000 đồng như đã hẹn.

 Đến khoảng 05 giờ ngày 20/01/2021 nhà xe đã giao cho chị B thùng hàng tại cổng chào Y, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Sau khi nhận thùng hàng chị B lấy điện thoại di động chụp lại và gửi tin nhắn qua mạng facebook cho S và S xác nhận là đúng thùng hàng đã gửi. Đến khoảng 06 giờ cùng ngày, S gọi điện cho chị B nhờ chở thùng hàng vừa nhận được đến con đường bên hông chùa Đ thuộc tổ dân phố X, phường Đ, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk để giao cho người đàn ông tên “B”, chị B đồng ý. Sau đó, chị B lấy xe mô tô biển số 47M4-73xx chở thùng hàng đi từ xã C, huyện K đến phường Đ, thị xã B. Khoảng 07 giờ cùng ngày, chị B điều khiển xe đi đến đoạn đường bên cạnh chùa Đ thuộc tổ dân phố X, phường Đ, thị xã B thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ phát hiện bắt quả tang, tạm giữ người cùng tang vật. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, S nghe tin chị B bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ tạm giữ, nên S đã cùng vợ đón xe từ tỉnh Bình Phước về và đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ đầu thú, khai nhận hành vi của mình.

Tại Bản kết luận giám định số 768/C09B, ngày 26/01/2021 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh, Viện khoa học Hình sự kết luận: 04 khối hình hộp chữ nhật có kích thước (16,5cm x 16,5cm x 10cm), bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 49 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm gửi giám định đều là pháo nổ (pháo hoa nổ). Khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu. Tổng khối lượng là 6,9kg; 01 túi nylon chứa các vật hình cầu (dạng giống quả bóng đá) vỏ bằng nhựa nhiều màu sắc, đường kính 2,7cm, một đầu có gắn đoạn dây màu xanh gửi giám định đều là pháo nổ. Khi đốt phát ra tiếng nổ lớn. Khối lượng là 0,46kg.

Vật chứng vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ tạm giữ gồm: 01 xe mô tô biển số 47M4-73xx, nhãn hiệu YAMAHA, màu S: đen - bạc và 01 giấy đăng ký xe mô tô số 009927, cấp ngày 17/6/2007 mang tên Hoàng Xuân H; 01 giấy phép lái xe số AT 069333 cấp ngày 25/9/2011 do Sở giao thông vận tải tỉnh Đăk Lăk cấp, mang tên Hoàng Thị B; 01 chiếc điện thoại Kiểu máy Vivo 1601, IMEL 1:

863689038599433, IMEL 2: 863689038599425, màu sắc: xám; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J2, màu xám số Imei 1353298088273712/01, số Imei 2 35329908273710/01, số SN R58HC39 KVXL; 01 bịch pháo bên trong chứa 100 viên hình cầu, vỏ bên ngoài bằng nhựa, có nhiều màu sắc, đường kính 2cm, dây đốt màu xanh, có khối lượng 0,46kg; 04 hộp pháo có đặc điểm: 03 khối hình hộp chữ nhật nhiều màu sắc, kích thước 16,5x16,5x10, bên ngoài có ghi chữ RICHFLOWER 49 SHOTS và 01 Khối hình hộp chữ nhật nhiều màu sắc, kích thước 16,5x16,5x10, bên ngoài có ghi chữ KS4 - 4911L 49 SHOTS có tổng khối lượng 6,84kg.

Bản cáo trạng số 16/CT-VKSBH ngày 14 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk đã truy tố bị cáo Trần Hồng S về tội: “Buôn bán hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ giữ quyền công tố trình bày luận tội và tranh luận xác định: Do ý thức coi thường pháp luật của Nhà nước, coi thường trật tự quản lý kinh tế và động cơ tư lợi cá nhân, thông qua mạng xã hội facebook. Nên vào ngày 20/01/2021 tại tổ dân phố X, phường Đ, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo Trần Hồng S đã có hành vi mua, bán pháo nổ các loại gồm: 04 hộp pháo nổ loại 49 ống/1 hộp (pháo hoa nổ) có tổng khối lượng 6,9 kg;

01 bịch pháo bi, khối lượng 0,46kg cho người có tài khoản trên mạng xã hội Facebook tên “B” (không rõ nhân thân, lai lịch) thu lợi bất chính số tiền 6.200.000 đồng, khi chưa kịp giao nhận thì bị bắt giữ cùng tang vật. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội: “Buôn bán hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Hồng S từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Buôn Hồ đã giao trả 01 xe mô tô biển số 47M4-73xx, nhãn hiệu YAMAHA, màu S: đen - bạc và 01 giấy đăng ký xe mô tô số 009927, cấp ngày 17/6/2007, tất cả đều mang tên Hoàng Xuân H cho ông Hoàng Xuân H; trả lại 01 giấy phép lái xe số AT 069333 cấp ngày 25/9/2011 do Sở giao thông vận tải tỉnh Đăk Lăk cấp, mang tên Hoàng Thị B; 01 chiếc điện thoại Kiểu máy Vivo 1601, IMEL 1: 863689038599433, IMEL 2: 863689038599425, màu sắc: xám cho chị Hoàng Thị B là các chủ sở hữu hợp pháp theo Quyết định xử lý vật chứng số 09 ngày 29/4/2021.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 bịch pháo bên trong chứa 100 viên hình cầu, vỏ bên ngoài bằng nhựa, có nhiều màu sắc, đường kính 2cm, dây đốt màu xanh, có khối lượng 0,46kg; 04 hộp pháo có đặc điểm: 03 khối hình hộp chữ nhật nhiều màu sắc, kích thước 16,5x16,5x10cm, bên ngoài có ghi chữ RICHFLOWER 49 SHOTS và 01 Khối hình hộp chữ nhật nhiều màu sắc, kích thước 16,5x16,5x10 cm, bên ngoài có ghi chữ KS4 - 4911L 49 SHOTS có tổng khối lượng 6,84kg (còn lại sau giám định: 03 khối hình hộp chữ nhật có kích thước 16,5x16,5x10 cm, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có 49 ống hình trụ tròn dài 10 cm, đường kính 2,3 cm; 01 túi ni lông có chứa các vật hình cầu dạng quả bóng đá, vỏ bằng nhựa nhiều màu sắc, đường kính 2,7 cm, có gắn đoạn dây màu xanh, bên trong đã trích ra 01 quả để giám định).

Đặc điểm theo biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định ngày 22/01/2021.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J2, màu xám số Imei 1353298088273712/01, số Imei 2 35329908273710/01, số SN R58HC39 KVXL (BL 59). Đây là điện thoại của bị cáo S sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Đối với người đàn ông đã bán pháo nổ cho bị cáo S và người có tên facebook “B” ở phường Đ, thị xã B mua pháo của bị cáo S. Cả 02 người này đều không rõ nhân thân, lai lịch. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ đang tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ nếu đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với chị Hoàng Thị G (vợ bị cáo) là người gọi xe khách P và trực tiếp mang thùng hàng là pháo nổ cho bị cáo S. Tuy nhiên, chị G không biết thùng hàng trên là pháo nổ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ không xử lý đối với chị G là có căn cứ pháp luật.

Đối với ông Hoàng Xuân H là người giao xe mô tô biển số 47M4-73xx cho chị Hoàng Thị B đi giao thùng hàng pháo nổ đưa cho người mua giúp bị cáo S. Tuy nhiên ông H và chị B không biết thùng hàng là pháo nổ, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ không xử lý đối với ông H và chị B là có căn cứ.

Đối với anh Lê Ngọc Th là quản lý nhà xe P nhận vận chuyển thùng hàng là pháo nổ do chị G gửi. Tuy nhiên, khi nhận vận chuyển anh Th không biết thùng hàng là pháo nổ. Do đó, cơ CQCSĐT Công an thị xã Buôn Hồ không xử lý anh Th là có căn cứ pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Trần Hồng S khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với hành vi mà nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo thừa nhận Viện kiểm sát truy tố và kết luận bị cáo phạm tội “Buôn bán hàng cấm” là đúng. Bị cáo không tranh luận gì với đại diện viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng khai nhận là phù hợp với lời khai của bị cáo và các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Buôn Hồ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, đương sự không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần Hồng S khai nhận: Do động cơ hám lợi, nên vào ngày 20/01/2021, tại tổ dân phố X, phường Đ, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo đã có hành vi mua, bán pháo nổ các loại gồm: 04 hộp pháo nổ loại 49 ống/1 hộp (pháo hoa nổ) có tổng khối lượng 6,9 kg; 01 bịch pháo bi, khối lượng 0,46kg cho người có tài khoản trên mạng xã hội Facebook tên “B” (không rõ nhân thân, lai lịch) thu lợi bất chính số tiền 6.200.000 đồng, khi chưa kịp giao nhận thì bị bắt giữ cùng tang vật, nên Viện kiểm sát truy tố và kết luận bị cáo phạm tội “Buôn bán hàng cấm” là đúng, bị cáo không tranh luận gì với đại diện viện kiểm sát. Xét lời khai của bị cáo là phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự.

Điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 244, 246, 248, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Sản xuất, buôn bán pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam;” [3] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế và chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước trong quản lý, sản xuất và kinh doanh một số hàng hóa bị cấm, đồng thời hành vi của bị cáo còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an chung của xã hội, đặc biệt trong dịp Tết cổ truyền của dân tộc. Về nhân thân, bị cáo có nhân thân xấu, tại bản án hình sự sơ thẩm số 06/2016/HSST ngày 03/02/2016 của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk đã xử phạt Trần Hồng S 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Sau khi chấp hành xong hình phạt, bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội, không nhận thấy được sự khoan hồng, nhân đạo của pháp luật dành cho bị cáo mà lại tiếp tục có hành vi buôn bán pháo nổ để kiếm lời nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình gây ra.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội bị cáo đã tự nguyện ra đầu thú và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình, do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Xét tính chất vụ án, tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo với xã hội một thời gian nhất định để bị cáo học tập, cải tạo trở thành người công dân ích cho gia đình và xã hội, đồng thời góp phần giáo dục phòng ngừa tội phạm chung và riêng trong toàn xã hội là phù hợp.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo là phù hợp.

[8] Xét quan điểm của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội buôn bán hàng cấm, đề nghị hình phạt áp dụng, về xử lý vật chứng, về hướng xử lý đối với Hoàng Thị G, Hoàng Thị B, Hoàng Xuân H, Lê Ngọc Th và đối tượng bán pháo nổ cho bị cáo và đối tượng mua pháo nổ của bị cáo chưa rõ nhân thân lai lịch là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về xử lý vật chứng:

[9.1] Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Buôn Hồ đã giao trả cho ông Hoàng Xuân H là chủ sở hữu hợp pháp 01 xe mô tô biển số 47M4- 73xx, nhãn hiệu YAMAHA, màu S: đen - bạc và 01 giấy đăng ký xe mô tô số 009927, cấp ngày 17/6/2007, mang tên Hoàng Xuân H ; trả lại cho chị Hoàng Thị B 01 giấy phép lái xe số AT 069333 cấp ngày 25/9/2011 do Sở giao thông vận tải tỉnh Đăk Lăk cấp, mang tên Hoàng Thị B; 01 chiếc điện thoại Kiểu máy Vivo 1601, IMEL 1: 863689038599433, IMEL 2: 863689038599425, màu sắc: xám là các chủ sở hữu hợp pháp theo Quyết định xử lý vật chứng số 09 ngày 29/4/2021. Xét thấy việc giao trả là phù hợp với khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9.2] Đối với 01 bịch pháo bên trong chứa 100 viên hình cầu, vỏ bên ngoài bằng nhựa, có nhiều màu sắc, đường kính 2cm, dây đốt màu xanh, có khối lượng 0,46kg; 04 hộp pháo có đặc điểm: 03 khối hình hộp chữ nhật nhiều màu sắc, kích thước 16,5x16,5x10, bên ngoài có ghi chữ RICHFLOWER 49 SHOTS và 01 Khối hình hộp chữ nhật nhiều màu sắc, kích thước 16,5x16,5x10, bên ngoài có ghi chữ KS4 - 4911L 49 SHOTS có tổng khối lượng 6,84kg. Những vật chứng trên còn lại sau giám định: 03 khối hình hộp chữ nhật có kích thước 16,5x16,5x10 cm, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có 49 ống hình trụ tròn dài 10 cm, đường kính 2,3 cm; 01 túi ni lông có chứa các vật hình cầu dạng quả bóng đá, vỏ bằng nhựa nhiều màu sắc, đường kính 2,7 cm, có gắn đoạn dây màu xanh, bên trong đã trích ra 01 quả để giám định.

Đây là vật chứng cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp với khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9.3] Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J2, màu xám số Imei 1353298088273712/01, số Imei 2 35329908273710/01, số SN R58HC39 KVXL (BL 59). Đây là công cụ của bị cáo S sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước là phù hợp với khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[10] Đối với người đàn ông đã bán pháo nổ cho bị cáo S và người có tên facebook “B” ở phường Đ, thị xã B mua pháo của bị cáo S. Cả 02 người này đều không rõ nhân thân, lai lịch. Do đó, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ đang tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ nếu đủ căn cứ sẽ xử lý sau là phù hợp.

[11] Đối với chị Hoàng Thị G là người gọi xe khách P và trực tiếp mang thùng hàng là pháo nổ cho bị cáo S để gửi về Đắk Lắk; ông Hoàng Xuân H là người giao xe mô tô biển số 47 M4-73xx cho chị Hoàng Thị B đi giao thùng hàng pháo nổ đưa cho người mua giúp bị cáo S; chị Hoàng Thị B là người trực tiếp nhận thùng hàng từ nhà xe P và đi giao thùng hàng pháo nổ giúp bị cáo S cho người mua; anh Lê Ngọc Th là quản lý nhà xe P nhận vận chuyển thùng hàng là pháo nổ do chị G gửi. Tuy nhiên, chị B, chị G, ông H, anh Th không biết thùng hàng là pháo nổ. Do đó, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ không xử lý những người này là có căn cứ pháp luật. [12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Hồng S phạm tội: “Buôn bán hàng cấm”.

[1] Về điều luật áp dụng và hình phạt:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Hồng S 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được khấu trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 20/01/2021 đến ngày 29/01/2021.

[2] Về xử lý vật chứng:

[2.1] Căn cứ vào khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Buôn Hồ đã giao trả cho ông Hoàng Xuân H 01 xe mô tô biển số 47M4-73xx, nhãn hiệu YAMAHA, màu S: đen - bạc và 01 giấy đăng ký xe mô tô số 009927, cấp ngày 17/6/2007, mang tên Hoàng Xuân H ; trả lại cho chị Hoàng Thị B 01 giấy phép lái xe số AT 069333 cấp ngày 25/9/2011 do Sở giao thông vận tải tỉnh Đăk Lăk cấp, mang tên Hoàng Thị B;01 chiếc điện thoại Kiểu máy Vivo 1601, IMEL 1: 863689038599433, IMEL 2:863689038599425, màu sắc: xám là các chủ sở hữu hợp pháp theo Quyết định xử lý vật chứng số 09 ngày 29/4/2021.

[2.2] Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy 01 bịch pháo bên trong chứa 100 viên hình cầu, vỏ bên ngoài bằng nhựa, có nhiều màu sắc, đường kính 2cm, dây đốt màu xanh, có khối lượng 0,46kg; 04 hộp pháo có đặc điểm: 03 khối hình hộp chữ nhật nhiều màu sắc, kích thước 16,5x16,5x10 cm, bên ngoài có ghi chữ RICHFLOWER 49 SHOTS và 01 Khối hình hộp chữ nhật nhiều màu sắc, kích thước 16,5x16,5x10 cm, bên ngoài có ghi chữ KS4 - 4911L 49 SHOTS có tổng khối lượng 6,84kg (còn lại sau giám định: 03 khối hình hộp chữ nhật có kích thước 16,5x16,5x10 cm, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có 49 ống hình trụ tròn dài 10 cm, đường kính 2,3 cm; 01 túi ni lông có chứa các vật hình cầu dạng quả bóng đá, vỏ bằng nhựa nhiều màu sắc, đường kính 2,7 cm, có gắn đoạn dây màu xanh, bên trong đã trích ra 01 quả để giám định).

Đặc điểm theo biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định ngày 22/01/2021. Hiện vật chứng là pháo nổ đang được lưu giữ tại kho vật chứng Công an thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động của bị cáo Trần Hồng S nhãn hiệu Samsung J2, màu xám số Imei 1353298088273712/01, số Imei 2 35329908273710/01, số SN R58HC39 KVXL.

(Đặc điểm cụ thể theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/5/2021 giữa Chi cục thi hành án dân sự thị xã B với Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Buôn Hồ và vật chứng do Chi cục thi hành án dân sự thị xã B quản lý).

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Hồng S phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2021/HS-ST ngày 15/06/2021 về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:15/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Buôn Hồ - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;