Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 28/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI NƯỚC, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 15/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 01 năm 2021 tại Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 466/2020/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2020. Về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 301/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1985 (Có mặt). Địa chỉ cư trú: Ấp CR A, xã PH, huyện CN, tỉnh CM

- Bị đơn: Anh Trần Hoàng A - Sinh năm 1974 (Vắng mặt). Địa chỉ cư trú: Ấp TT, xã TH, huyện CN, tỉnh CM

NỘI DUNG VỤ ÁN

 * Tại đơn khởi kiện đề ngày 15 – 10– 2020, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Nh trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Trần Hoàng A kết hôn vào năm 2003 đến năm 2018 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Hưng, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. Thời gian đầu kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng đến khoảng năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống dẫn đến thường xuyên cãi nhau, gia đình hai bên có hàn gắn nhưng giữa chị và anh Hoàng A không thể hàn gắn được với nhau, chị và anh Hoàng A đã sống ly thân từ đầu năm 2019 cho đến nay. Nay xét thấy đời sống vợ chồng không còn hạnh phúc nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Trần Hoàng A.

Về con chung: Trong quá trình chung sống giữa chị và anh Hoàng A có 02 con chung tên Trần Quốc Lượm, sinh ngày 19/4/2003 và Trần Bích Ngân, sinh ngày 15/5/2005, hiện nay các con đang sống chung với chị. Sau khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi các con, không yêu cầu anh Hoàng A cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

 Đối với anh Trần Hoàng A, Tòa án đã tống đạt thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và triệu tập anh Hoàng A để tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng anh Hoàng A vắng mặt không lý do.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Nước phát biểu:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Nh được ly hôn với anh Trần Hoàng A; Giao 02 con chung tên Trần Quốc Lượm, sinh ngày 19/4/2003 và Trần Bích Ngân, sinh ngày 15/5/2005 cho chị Nh tiếp tục nuôi dưỡng, vấn đề cấp dưỡng không đặt ra; Án phí chị Nh phải chịu theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về tố tụng: Tranh chấp giữ chị Nguyễn Thị Nh và anh Trần Hoàng A là tranh chấp Hôn nhân và gia đình về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Trần Hoàng A có địa chỉ tại Ấp TT, xã TH, huyện CN, tỉnh CM. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Cái Nước thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Tòa án đã triệu tập anh Hoàng A hợp lệ để tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng anh Hoàng A vắng mặt không lý do. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Cái Nước xét xử vắng mặt đối với anh Hoàng A theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Nh và anh Hoàng A kết hôn vào năm 2018 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Hưng, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau theo Giấy chứng nhận kết hôn số 34/2018 ngày 05/3/2018. Do đó, hôn nhân của chị Nh và anh Hoàng A là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Hội đồng xét xử nhận thấy mâu thuẫn của chị Nh và anh Hoàng A thực sự có xảy ra trong thời gian dài nhưng không thể hàn gắn được, chị Nh và anh Hoàng A đã sống ly thân với nhau từ đầu năm 2019 cho đến nay. Do hôn nhân không còn hạnh phúc nên chị Nh yêu cầu ly hôn với anh Hoàng A. Anh Hoàng A không tham gia phiên tòa và cũng không có ý kiến gì về yêu cầu xin ly hôn của chị Nh, cho thấy anh Hoàng A không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tại biên bản làm việc ngày 03/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước với bà Nguyễn Thị Rỡ là mẹ ruột của anh Trần Hoàng A trình bày: Giữa chị Nh và anh Hoàng A thời gian đầu kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong việc làm ăn. Khi mâu thuẫn xảy ra bà có khuyên nhủ, hàn gắn cho chị Nh và anh Hoàng A. Từ đó cho thấy mâu thuẫn giữa chị Nh và anh Hoàng A đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu xin ly hôn của chị Nh đối với anh Hoàng A là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên chấp nhận.

[3] Về con chung: Đối với cháu Trần Quốc Lượm, sinh ngày 19/4/2003 và Trần Bích Ngân, sinh ngày 15/5/2005 tính đến ngày xét xử sơ thẩm đã trên 07 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi, theo quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình “Vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Tại Biên bản ghi nhận ý kiến ngày 11/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước đối với cháu Trần Quốc Lượm và cháu Trần Bích Ngân thì hai cháu trình bày nguyện vọng muốn được sống với mẹ là chị Nguyễn Thị Nh. Xét thấy, đây là ý chí tự nguyện của hai cháu và từ khi ly thân cho đến nay 02 cháu do chị Nh trực tiếp nuôi dưỡng đã ổn định về đời sống, chị Nh có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con. Anh Hoàng A được Tòa án thông báo về yêu cầu nuôi các con của chị Nh nhưng anh Hoàng A không có ý kiến gì nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con của chị Nh, giao con chung tên Trần Quốc Lượm và Trần Bích Ngân cho chị Nh tiếp tục nuôi dưỡng.

Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con, chị Nh không yêu cầu nên không đặt ra xem xét  

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nh xác định, chị và anh Hoàng A không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Đối với anh Hoàng A vắng mặt tại phiên tòa, anh Hoàng A không có ý kiến gì về con chung, tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Nếu sau này giữa các bên đương sự có phát sinh tranh chấp về con chung, tài sản chung và nợ chung thì có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác theo quy định pháp luật.

[5] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm chị Nh phải chịu theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ các Điều 28; 35; 39; 147, 227, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều 9, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Về hôn nhân: Chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Nh được ly hôn với anh Trần Hoàng A.

Về con chung: Giao con chung tên Trần Quốc Lượm, sinh ngày 19/4/2003 và Trần Bích Ngân, sinh ngày 15/5/2005 cho chị Nguyễn Thị Nh tiếp tục nuôi dưỡng. Anh Trần Hoàng A chưa phải cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Nh phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng, đối trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005795 ngày 15/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Nước chị Nh nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Anh Trần Hoàng A không phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Trường hợp Bản án (Quyết định) được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm chị Nguyễn Thị Nh có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Trần Hoàng A có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 28/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:15/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Nước - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;