Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 26/02/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TT – TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 15/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TT, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số: 04/2021/TLST- HNGĐ, ngày 11 tháng 01 năm 2021 về: “Tranh chấp ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2021/QĐXX- DS ngày 02 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị S,, sinh năm: 1976; địa chỉ cư trú: Tổ 07, ấp AN, xã LP, huyện TT, tỉnh An Giang;

Bị đơn: Ông Lê Văn N, sinh năm: 1973; địa chỉ cư trú: Tổ 07, ấp AN, xã LP, huyện TT, tỉnh An Giang..

Tại phiên tòa, có mặt bà S. Ông N vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 29/12/2020 với các tài liệu kèm theo và quá trình tố tụng tại tòa, bà Huỳnh Thị S trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa bà với ông N được hình thành là do tự tìm hiểu, được cha mẹ đứng ra tổ chức đám cưới cho hai người vào năm 1991, nhưng từ đó đến nay vẫn chưa đăng ký kết hôn. Cuộc sống chung là không hạnh phúc, do ông N có quan hệ lăn nhăn với bên ngoài rồi về bạo hành gia đình, thường xuyên đánh đập bà; ông N cũng vì đánh bà mà đã từng bị đưa ra công khai hóa, nhưng vẫn tính nào tật đó, nhưng vì bà mong ông có ngày thay đổi bản tính, nên cố chịu đựng đến nay là quá sức của bà. Nay bà xét thấy tình cảm vợ chồng là không còn, bà xin ly hôn với ông N.

Về quan hệ con chung: Bà với ông N có 02 con chung tên: 1/ Lê Văn Ng, sinh ngày 02/8/1992; 2/ Lê Thị Kiều O, sinh ngày 05/6/1994. Hiện hai con đã trưởng thành và sống tự lập, nên khi ly hôn bà không yêu cầu giải quyết.

Về quan hệ tài sản chung: Bà với ông N không có tài sản chung.

Về quan hệ nợ chung: Bà với ông N không có nợ chung.

Bị đơn ông Lê Văn N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa ông với bà S được hình thành đúng như bà S trình bày. Nhưng nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn không như bà S khai mà do ông có tính nhậu nhẹt với bạn bè và khi có rượu ông cũng có những lời lẽ không hay rồi dẫn đến gây cải nhau với bà S, từ đó bà S xin ly hôn với ông, nay ông xét thấy mâu thuẫn không gì trầm trọng, nhưng với thái độ kiên quyết đòi ly hôn của vợ ông, thì ông có yêu cầu tiếp tục chung sống cũng không hạnh phúc, nên nay ông cũng đồng ý ly hôn.

Về quan hệ con chung: Đúng là ông với bà S có 02 con chung, họ tên và ngày tháng năm sinh như bà S trình bày, hiện hai con chung đã trưởng thành, nên khi ly hôn, ông không yêu cầu giải quyết.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Thống nhất với trình bày của bà S.

Tại phiên tòa, bà S bảo lưu ý kiến của mình. Riêng ông N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Quan điểm của Kiểm sát viên:

Về tố tụng: Tòa án thụ lý giải quyết đúng theo trình tự thủ tục, xác định đúng quan hệ tranh chấp và thẩm quyền xét xử. Trong quá trình tiến hành tố tụng, Thẩm phán cũng như Hội đồng xét xử (HĐXX) đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, các đương sự trong vụ án cũng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, có thiếu thủ tục cấp tống đạt thông báo nhưng không nghiêm trọng, không ảnh hưởng nội dung vụ án, nên chỉ đề nghị rút kinh nghiệm.

Về nội dung: Bà S – ông N chung sống nhưng không đăng ký kết hôn, nên không xem là hôn nhân hợp pháp. Nay bà S xin ly hôn, đề nghị tuyên không công nhận bà S – ông N là quan hệ vợ chồng; hai người có con chung nhưng đã trưởng thành không yêu cầu giải quyết, cũng như về tài sản chung, nợ chung: không có, nên không xem xét. Từ phân tích trên đề nghị HĐXX xem xét quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, quan điểm của Kiểm sát viên.

HĐXX nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Bà S khởi kiện: “Tranh chấp ly hôn” với ông N là thuộc thẩm quyền của Tòa án được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; ông N có địa chỉ cư trú tại huyện TT, nên căn cứ vào khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện TT giải quyết đúng thẩm quyền. Ông N có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, HĐXX xét xử vắng mặt ông N theo Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa bà S – ông N được hình thành là do hai người tự tìm hiểu và chung sống nhau từ năm 1991; lẽ ra bà S – ông N phải tuân thủ pháp luật, đăng lý kết hôn theo quy định, nhưng giai đoạn hòa giải cũng như tại phiên tòa bà S – ông N cùng trình bày từ trước đến nay vẫn chưa đăng ký kết hôn. Trình bày của bà S – ông N phù hợp với kết quả xác minh của Tòa án tại Ủy ban nhân dân xã LP, huyện TT ngày 27/01/2021, nơi bà S – ông N có đăng ký hộ khẩu, nên HĐXX áp dụng Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình tuyên không công nhận bà Huỳnh Thị S – ông Lê Văn N là quan hệ vợ chồng.

[3]. Về quan hệ con chung: Xét thấy hai con chung: 1/ Lê Văn Ng, sinh ngày 02/8/1992; 2/ Lê Thị Kiều O, sinh ngày 05/6/1994, hiện đã trưởng thành. Khi ly hôn bà S – ông N không yêu cầu giải quyết, nên HĐXX không đề cặp.

[4]. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Bà S – ông N cùng khai không có tài sản chung và không có nợ chung, nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[5]. Về án phí: Bà Huỳnh Thị S là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định tại các Điều 144, 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 144, 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của bà Huỳnh Thị S.

Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận bà Huỳnh Thị S – ông Lê Văn N là quan hệ vợ chồng;

Về quan hệ con chung: Bà Huỳnh Thị S – ông Lê Văn N có 02 con chung tên: 1/ Lê Văn Ng, sinh ngày 02/8/1992; 2/ Lê Thị Kiều O, sinh ngày 05/6/1994, hiện đã trưởng thành.

Về quan hệ tài sản chung: Bà S – ông N khai không có tài sản chung.

Về quan hệ nợ chung: Bà S – ông N khai không có nợ chung.

Về án phí: Bà Huỳnh Thị S phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được chuyển từ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0000691 ngày 29/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TT (bà S nộp đủ).

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (26/02/2021), đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

(Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 26/02/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:15/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tri Tôn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;