Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 15/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 19 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 409/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2020/QĐXXST–HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Phạm Văn L, sinh năm 1982;

Địa chỉ: Ấp 6, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau. (có mặt)

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị C, sinh năm 1983:

Địa chỉ: Ấp 6, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 07/9/2020, nguyên đơn anh Phạm Văn L trình bày: Về hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị C tự tìm hiểu và được cha mẹ hai bên tổ chức lễ cưới có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau. Trong thời gian chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng không có tiếng nói chung, mỗi lần cự cải chị C thường bỏ về nhà cha mẹ ruột sống và vợ chồng đã ly thân từ tháng 3/2020 cho đến nay. Anh L xác định không thể tiếp tục chung sống với chị C được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị C.

Về con chung: Trong thời gian chung sống anh và chị C có 01 người con tên Phạm Trọng Nh sinh ngày 22/6/2018, hiện do chị C đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn anh L tự nguyện giao cháu Nh cho chị C tiếp tục nuôi dưỡng, anh L không cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung: Anh L xác định vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh L xác định trong thời gian chung sống vợ chồng không có nợ ai và cũng không ai nợ lại vợ chồng, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án trực tiếp tống đạt thông báo thụ lý vụ án cho chị Nguyễn Thị C, hai lần thông báo hòa giải và hai lần triệu tập xét xử nhưng chị C không có ý kiến phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của anh L, không tham gia hòa giải và xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị C.

[2] Về hôn nhân: Anh L với chị C tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn vào năm 2018. Tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, thì mối quan hệ hôn nhân giữa anh Phạm Văn L với chị Nguyễn Thị C được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Về nguyên nhân mâu thuẫn: Theo anh L xác định trong thời gian chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng không có tiếng nói chung, mỗi lần cự cải chị C bỏ về nhà cha mẹ ruột sống và vợ chồng đã ly thân từ tháng 3/2020 cho đến nay. Tại phiên tòa anh L xác định không còn tình cảm với chị C và cũng không thể tiếp tục chung sống với chị C được nữa nên vẫn giữ yêu cầu được ly hôn với chị C; đối với chị Nguyễn Thị C, mặc dù đã biết được nội dung khởi kiện xin ly hôn của anh L nhưng chị C không có ý kiến gì đối với yêu cầu của anh L, điều này cho thấy chị C đã không mong muốn hàn gắn mối quan hệ hôn nhân này nữa. Từ đó cho thấy hôn nhân của anh L với chị C đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu của anh L cho anh L được ly hôn với chị C là phù hợp.

[3] Về con chung: Trong thời gian chung sống vợ chồng có 01 người con tên Phạm Trọng Nh sinh ngày 22/6/2018, hiện đang sống cùng với chị C. Khi ly hôn anh L tự nguyện giao cháu Nh cho chị C tiếp tục nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng cho con không đặt ra; đối với chị C không có ý kiến về việc nuôi con và cấp dưỡng cho con. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi chị C và anh L ly thân cho đến nay cháu Nh do chị C trực tiếp nuôi dưỡng. Do đó, căn cứ vào khoản 2, 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 giao cháu Nh cho chị C được tiếp tục nuôi dưỡng là có căn cứ; đối với việc cấp dưỡng cho con Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này, nếu sau này chị C có yêu cầu thì có quyền khởi kiện thành vụ kiện riêng.

[4] Về tài sản chung: Anh L xác định vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết; đối với chị C không có ý kiến gì về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về nợ chung: Anh L xác định vợ chồng không có nợ ai và không ai nợ lại vợ chồng và không yêu cầu Tòa án giải quyết; đối với chị C không có ý kiến gì về nợ chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm anh Phạm Văn L phải chịu 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; khoản 2, 3 Điều 81 và Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giãm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Văn L. Cho anh Phạm Văn L được ly hôn với chị Nguyễn Thị C.

2. Về con chung: Giao cháu Phạm Trọng Nh sinh ngày 22/6/2018 cho chị C được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Phạm Văn L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0011415 ngày 02/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình; anh L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Anh L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; chị C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:15/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;