TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN - TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 15/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 14 tháng 01 năm 2021. Tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 313/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020, về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con ” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 24/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Bùi Thị L - Sinh năm 2000. (có mặt) Nơi cư trú: Thôn Thạnh M, xã Tam Mỹ T, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc T – Sinh năm 1989. (vắng mặt) Nơi ĐKHKTT: Thôn Xóm B, xã Điện H, thị xã Điện Bàn, Quảng Nam. Nơi cư trú: Thôn Hà T 2, xã Điện H, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 06 tháng 10 năm 2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn Bà Bùi Thị L trình bày:
1.Về quan hệ hôn nhân:
Bà Bùi Thị L và Ông Nguyễn Ngọc T kết hôn với nhau vào ngày 16 tháng 8 năm 2018, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Tam Mỹ T, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện.
Quá trình chung sống, vợ chồng đã sinh được một con chung thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông Nguyễn Ngọc T cờ bạc, không chăm lo gia đình, vợ con. Đã nhiều lần bà L khuyên can để gia đình được hạnh phúc nhưng ông T vẫn không thay đổi dẫn đến gia đình thường xuyên mâu thuẩn. Bà Bùi Thị L bỏ về nhà cha mẹ ruột từ tháng 01 năm 2018 cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân, vợ chồng vẫn không hòa giải để về đoàn tụ chung sống được.
Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể tiếp tục kéo dài nên bà Bùi Thị L làm đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Ngọc T.
2. Về con chung: Có 01 con chung.
- Nguyễn Gia B - Sinh ngày 01 tháng 01 năm 2018. Hiện nay cháu B dang sống với bà L. Nếu ly hôn, bà L yêu cầu được nuôi con Nguyễn Gia B và yêu cầu Ông Nguyễn Ngọc T cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng. Tại phiên tòa, bà L thay đổi yêu cầu và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
Ngoài yêu cầu trên bà L không có yêu cầu gì khác.
Bị đơn ông Nguyễn Ngọc T không có mặt tại phiên toà.
Sau khi Toà án thụ lý vụ án, đã tiến hành các thủ tục theo quy định của BLTTDS, triệu tập đương sự nhưng ông Nguyễn Ngọc T không chấp hành giấy triệu tập. Toà án đã tiến hành xác minh tại địa phương thì xác định ông T vẫn đang sinh sống, làm việc và cư trú tại thôn Hà T 2, xã Điện H, thị xã Điện Bàn nhưng cố tình trốn tránh, không chấp hành giấy triệu tập cũng như các giấy tờ khác của Toà án gởi cho ông T.
Toà án tiến hành làm thủ tục thực hiện việc niêm yết công khai thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên hoà giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên toà nhưng ông Nguyễn Ngọc T vẫn không chấp hành giấy triệu tập của Toà án.
Đại diện VKSND thị xã Điện Bàn phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý và Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của BLTTDS, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đảm bảo kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án. Đối với bị đơn không chấp hành theo giấy triệu tập cũng như các quy định khác của pháp luật. VKS đề nghị HĐXX:
Áp dụng Điều 28, 35, 39 của BLTTDS; các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình.
Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Bùi Thị L đối với ông Nguyễn Ngọc T. Về con chung giao con là Nguyễn Gia B cho bà Bùi Thị L trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Bà L không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh L tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Bà Bùi Thị L khởi kiện yêu cầu được ly hôn ông Nguyễn Ngọc T và yêu cầu nuôi con khi ly hôn. Đây là tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 BLTTDS. Thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
[2] Về tố tụng: Ông Nguyễn Ngọc T không chấp hành giấy triệu tập của Tòa án, Toà án đã tiến hành lập thủ tục niêm yết công khai theo quy định tại điều 179 của BLTTDS nhưng ông Nguyễn Ngọc T vẫn không đến Toà án. Căn cứ vào Điều 227 của BLTTDS Toà án tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông Nguyễn Ngọc T.
[3] Về quan hệ hôn nhân:
Quan hệ hôn nhân giữa bà Bùi Thị L và ông Nguyễn Ngọc T là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng đã có 01 con chung thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo bà L khai: Do ông Nguyễn Ngọc T cờ bạc, không chăm lo gia đình, vợ con. Đã nhiều lần bà L khuyên can nhưng ông T vẫn không thay đổi dẫn đến gia đình thường xuyên mâu thuẩn. Bà Bùi Thị L bỏ về nhà cha mẹ ruột từ tháng 01 năm 2018 cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân, vợ chồng vẫn không hòa giải để về đoàn tụ chung sống được.
Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể tiếp tục kéo dài nên bà Bùi Thị L làm đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Ngọc T.
HĐXX xét thấy: Tình trạng hôn nhân giữa bà L và ông T đã mâu thuẫn trầm trọng và kéo dài, vợ chồng không còn chung sống với nhau từ tháng 01 năm 2018 cho đến nay. Xác minh tại chính quyền địa phương cho thấy ông Nguyễn Ngọc T có mặt tại địa phương nhưng không chấp hành giấy triệu tập của Tòa án. Không đến Tòa án trình bày ý kiến, nguyện vọng của mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật. Như vậy, đời sống chung giữa bà Bùi Thị L và ông Nguyễn Ngọc T không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ Điều 51, 56, 57 Luật Hôn nhân và gia đình. Xử cho bà Bùi Thị L được ly hôn ông Nguyễn Ngọc T là phù hợp.
[4] Về con chung: Bà L và ông T có 01 con chung Nguyễn Gia B - Sinh ngày 01 tháng 01 năm 2018. Hiện nay con Nguyễn Gia B đang sống với bà L. Trong quá trình giải quyết vụ án, Bà L yêu cầu được nuôi con Nguyễn Gia B và yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 2.000.000 đồng. Tại phiên tòa, Bà L thay đổi yêu cầu khởi kiện và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.
HĐXX xét thấy: Việc giao con cho ai nuôi phải đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con trẻ. Xét thấy cháu Nguyễn Gia B còn nhỏ nên việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục rất cần thiết ở giai đoạn này. Hiện nay cháu Bảo đang ở với bà L. Bà L có nguyện vọng được nuôi con. Do đó, căn cứ Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình nên giao cháu Nguyễn Gia bảo - Sinh ngày 01 tháng 01 năm 2018 cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Bà Bùi Thị L không yêu cầu ông Nguyễn Ngọc T cấp dưỡng nuôi con.
Ông Nguyễn Ngọc T có quyền thăm nom con chung sau khi ly hôn.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
[6] Về án phí:Căn cứ điều 147 của BLTTDS; Điều 26, 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bà Bùi Thị L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28, 35, 39, 147, 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 17 Luật phí và lệ phí, Điều 26, 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Cho bà Bùi Thị L ly hôn ông Nguyễn Ngọc T.
2. Về nuôi con chung: Giao con Nguyễn Gia B - Sinh ngày 01 tháng 01 năm 2018, cho bà Bùi Thị L, trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Bà Bùi Thị L không yêu cầu ông Nguyễn Ngọc T cấp dưỡng nuôi con chung.
Ông Nguyễn Ngọc T được quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
4. Về án phí: Bà Bùi Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí HNST đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0002733 ngày 06/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Điện Bàn. Bà Bùi Thị L đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Các đương sự, có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 15/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Điện Bàn - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về