Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 04/05/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ K, TỈNH LONG AN 

BẢN ÁN 15/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 04 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã K xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 08/2021/TLHNGĐ-ST ngày 21 tháng 01 năm 2021 về việc tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2021/QĐXXHNGĐ-ST ngày 31 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị H, sinh năm 1973.

- Bị đơn: Ông Lương Văn H1, sinh năm 1974.

Cùng địa chỉ: khu phố 6, phường 2, thị xã K, tỉnh Long An.

Bà H có mặt, ông H1 vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn của bà Huỳnh Thị H, các tài liệu chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ và lời trình bày của đương sự tại phiên tòa, thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Yêu cầu của nguyên đơn - Bà Huỳnh Thị H trình bày: Vào năm 1995, bà H và ông H1 chung sống với nhau như vợ chồng. Đến ngày 31 tháng 12 năm 2002, ông bà đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn M (nay là Ủy ban nhân dân phường 1), huyện M (nay là thị xã K). Bà và ông H1 tự nguyện kết hôn, không bị ai ép buộc. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 04 năm thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do ông H1 thường xuyên nhậu về nhà kiếm chuyện quậy phá, chửi bới vợ con. Sự việc này cứ lặp đi lặp lại và kéo dài đến nay. Từ năm 2014 đến nay, vợ chồng vẫn sống chung nhà nhưng không ai quan tâm đến ai, tự làm tự sống, bỏ mặc cho nhau muốn sống ra sao thì sống. Do đó, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc nữa nên bà H xin ly hôn với ông H1, trả lại tự do cho nhau; về con chung: Bà H xác định vợ chồng chung sống có hai người con chung tên Lương Tấn T, sinh năm 1996, giới tính nam và Lương Thị Hoàng O, sinh năm 1999, giới tính nữ. Hai người con chung đã trưởng thành, không bị dị tật, có khả năng lao động, có thể tự làm, tự sống, không yêu cầu Tòa án giải quyết; về tài sản chung, nợ chung: Bà H xác định và cam kết trong thời kỳ hôn nhân không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Khi nhận được hồ sơ khởi kiện của bà H, Tòa án nhân dân thị xã K tiến hành thụ lý giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục pháp luật quy định. Tòa án nhân dân thị xã K đã ra thông báo về việc thụ lý vụ án; các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, đã tống đạt hợp lệ cho ông H1 nhưng ông H1 không đến tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo các thông báo của Tòa án. Đồng thời, ông H1 cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì và không gửi văn bản nêu ý kiến của ông H1 cho Tòa án biết về việc bà H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông H1. Do đó, các phiên hòa giải không thể tiến hành được theo quy định pháp luật nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quan hệ pháp luật tranh chấp là ly hôn, bị đơn là ông H1 có địa chỉ tại phường 2, thị xã K, tỉnh Long An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã K theo quy định tại các Điều 26, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của ông H1 tại phiên tòa: Ông H1 đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa, nhưng ông H1 vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông H1 là phù hợp theo các Điều 177, 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông H1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện M (nay là thị xã K) cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào năm 2002. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận.Từ năm 2014 đến nay, bà H và ông H1 vẫn sống chung nhà nhưng không ai quan tâm đến ai, tự làm, tự sống, bỏ mặc cho nhau muốn sống ra sao thì sống. Do đó, tình trạng hôn nhân giữa bà H và ông H1 đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà H, xử cho bà H được ly hôn với ông H1 là có căn cứ phù hợp với quy định tại các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Bà H trình bày hiện nay hai người con chung đã trưởng thành, có khả năng lao động, có thể tự làm tự sống, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Bà H xác định và cam kết trong thời kỳ hôn nhân không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Áp dụng các Điều 3, 6, 24, 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bà H phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 28, 35, 39, 147, 177, 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 3, 6, 24, 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà Huỳnh Thị H, xử cho bà Huỳnh Thị H được ly hôn với ông Lương Văn H1.

2. Về án phí: Buộc bà Huỳnh Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0009565 ngày 19 tháng 01 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã K. Bà Huỳnh Thị H đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

3. Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, báo cho biết được quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 04/05/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:15/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã Kiến Tường - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;