Bản án 15/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 15/2020/HS-ST NGÀY 25/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 09/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13a/2020/QĐXXST- HS ngày 13 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Thào A T, sinh năm 1958; tại: huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: bản C, xã N, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: chưa qua đào tạo; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Thào A L (đã chết) và bà Giàng Thị X (đã chết); bị cáo có vợ Giàng Thị M, sinh năm 1959 và 10 con, con lớn nhất sinh năm 1980, con nhỏ nhất sinh năm 2004; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: chưa có án tích hoặc xử lý, xử phạt vi phạm hành chính khác; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/6/2020 đến nay; có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn Hải là Luật sư của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La; có mặt.

- Người làm chứng: Lò Văn H, sinh 2000, nơi cư trú: bản K, xã N, huyện M, tỉnh Sơn La và Hà Văn P, sinh 1984, nơi cư trú: bản K, xã T, huyện M, tỉnh Sơn La; vắng mặt.

- Người phiên dịch: Vàng Thị Dàng, nơi cư trú: T 3, thị trấn Í, huyện M, tỉnh Sơn La; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 00 phút, ngày 03/6/2020 Lò Văn H đi bộ đến nhà Thào A T ở bản C, xã N, huyện M, tỉnh Sơn La; gặp T, H hỏi “có ma tuý bán không?” T trả lời “có”, cùng lúc Hà Văn P cũng đến hỏi T “có ma tuý bán không? Bán cho 50.000 VNĐ”. T trả lời “có” đồng thời nhận của P và H mỗi người 50.000VNĐ và lấy từ trong túi quần bên trái đang mặc ra 02 gói nilon màu hồng bên trong là viên nén hình tròn màu hồng đưa cho H và P mỗi người một gói; H và P mở giấy gói ra rồi chia nhỏ thành 02 phần, H gói 01 phần vào giấy nilon màu trắng cất vào trong túi, P gói 01 phần vào giấy bạc rồi cất vào trong túi thì bị Tổ công tác Công an huyện M cùng Công an xã N làm nhiệm vụ phát hiện. Bị phát hiện H và P đã vứt bỏ 01 phần của viên nén màu hồng, còn lại: Lò Văn H giao nộp 01 gói nilon màu trắng bên trong có cục bột màu hồng, H khai nhận là ma tuý mua của T; Hà Văn P giao nộp 01 gói giấy bạc bên trong có cục bột màu hồng, P khai nhận là ma tuý mua của T. Thấy vậy, T đã tự giao số tiền 100.000VNĐ cùng 01 gói nilon màu trắng bên trong có 08 gói nilon màu hồng mỗi gói có chứa 01 viên nén màu hồng, T khai nhận đó là ma tuý. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, dẫn giải về Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện M để điều tra theo thẩm quyền. Cùng ngày tiến hành khám xét khẩn cấp nhà ở của Tủa nhưng không thu giữ gì thêm; thực hiện truy tìm 01 phần viên nén màu hồng do H và P vứt bỏ nhưng không thu giữ được.

Trong quá trình điều tra Thào A T khai nhận: ngày 31/5/2020 Tủa đi bộ thì gặp và mua 01 gói nilon màu hồng, trong có chứa 10 viên nén màu hồng của 02 người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, địa chỉ ở khu vực bản C, xã N, huyện M, tỉnh Sơn La về cất giữ mục đích để sử dụng và bán kiếm lời; đến 15 giờ 10 phút ngày 03/6/2020 Tủa bán trái phép chất ma tuý cho Hoàng và Phương thì bị bắt.

Ngày 04/6/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện M, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành mở niêm phong cân tịnh tách bì, xác định khối lượng và lấy mẫu giám định tang vật thu giữ khi bắt quả tang Thào A T, Lò Văn H và Hà Văn P như sau:

Cục màu hồng trong gói nilon màu trắng thu giữ với Lò Văn H có khối lượng: 0,03 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu là HT;

Cục màu hồng trong gói giấy bạc thu giữ với Hà Văn P có khối lượng: 0,04 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu là PT;

Các viên nén màu hồng trong nilon màu hồng thu giữ với Thào A T có tổng khối lượng: 0,77 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu là T.

Còn lại: 03 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 02 mảnh nilon màu trắng, 08 mảnh nilon màu hồng và 01 mảnh giấy bạc niêm phong lưu kho vật chứng theo quy định.

Ngày 09/7/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện thực hiện trưng cầu giám định số tiền 100.000VNĐ thu giữ của Thào A T.

Ngày 08/6/2020 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có Kêt luân giám định số: 891, kết luận: “Các mẫu gửi giám định ký hiệu HT, PT, T đều là chất ma túy; Loại chất Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là HT = 0,03 gam, PT = 0,04 gam, T = 0,77 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,84 gam; loại Methamphetamine. Hoàn lại chất bột màu hồng thuộc mẫu giám định ký hiệu T, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,40 gam”.

Ngày 16/7/2020 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có kêt luân giám định số 1190, Kết luận: Số tiền VNĐ gửi giám định là tiền thật.

Tiến hành điều tra xác minh nhân thân của Lò Văn H và Hà Văn P nhưng chưa có tiền án, tiền sự là người nghiện ma tuý cơ quan chức năng đã áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm hành chính.

Thực hiện điều tra, xác minh đối với người bán trái phép chất ma túy cho Tủa nhưng không thu thập được tài liệu khác ngoài lời khai của Tủa.

Bản cáo trạng số 79/CT-VKS-ML ngày 19/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo Thào A T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đó là do nghiện ma túy nên đã mua ma túy cất giữ, mục đích để sử dụng và bán cho người khác kiếm lời thì bị bắt như cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M luận tội và tranh luận: đề nghị tuyến bố bị cáo Thào A T phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Thào A T từ 07 đến 08 năm tù; không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu và tiêu hủy 0,40 gam Methamphetamine; 03 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 02 mảnh nilon màu trắng, 08 mảnh nilon màu hồng và 01 mảnh giấy bạc; tịch thu 100.000VNĐ nộp ngân sách Nhà nước; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo T tranh luận: đồng ý với nội dung cáo trạng và lời khai bị cáo đã trình bày; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, hiểu biết về đời sống xã hội và pháp luật rất hạn chế, hộ nghèo; sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo tuổi đã cao, trong lao động đã cụt bàn tay phải sức khoẻ yếu nên đề nghị Hội đồng xét xử xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở về với gia đình, xã hội; đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, miễn tiền án phí cho bị cáo.

Bị cáo bổ sung bào chữa, tranh luận: bị cáo xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt, xin được miễn án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người khác không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Người làm chứng vắng mặt, Hội đồng xét xử thấy lời khai có trong hồ sơ đã rõ nên quyết định xét xử vắng mặt; căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về chứng cứ xác đinh hành vi phạm tội: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, cáo trạng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, chứng cứ, tài liệu đã được thu thập và phản ánh trong hồ sơ của vụ án, được thẩm tra, xác minh tại phiên toà, xác định: Thào A T đã mua trái phép chất ma tuý về cất giấu, cất giữ với mục đích để sử dụng và bán lại kiếm lời, thực tế cùng lúc Tủa đã bán trái phép chất ma tuý (Methamphetamine) cho Lò Văn H được 50.000VNĐ và Hà Văn P được 50.000VNĐ thì bị phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại kết luận giám định số 891, kết luận: “Các mẫu gửi giám định ký hiệu HT, PT, T đều là chất ma túy; Loại chất Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là HT = 0,03 gam, PT = 0,04 gam, T = 0,77 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,84 gam; loại Methamphetamine”. Như vậy, Thào A T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã cố ý trực tiếp thực hiện hành vi cất giấu, cất giữ và cùng thời gian bán trái phép chất ma tuý cho hai người để kiếm lời là xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý có đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Thào A T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” với tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; tội phạm và hình phạt được quy định như sau:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: c) Đối với 02 người trở lên”.

[4] Về tính chất mức độ của hành vi: Bị cáo đã được Đảng và Nhà nước tuyên truyền, vận động, cấm sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý nhưng ý thức coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước, nhằm mục đích tư lợi cá nhân, kiếm lời dễ dàng bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; với lỗi cố ý trực tiếp bị cáo không chỉ cất giấu, cất giữ trái phép chất ma túy (Methamphetamine) có tổng khối lượng 0,84 gam mà còn bán trái phép chất ma túy cho 02 người khác; tội phạm bị cáo thực hiện đã hoàn thành, hành vi phạm tội rất nghiêm trọng, không những làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, sự phát triển về thể chất của con người, suy giảm khả năng lao động do nghiện ma túy và kinh tế của gia đình bị cáo mà còn ảnh hưởng xấu về trật tự an toàn xã hội, trật tự trị an ở địa phương là nguyên nhân gây ra những loại tội phạm, vi phạm pháp luật khác nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng là đúng người, đúng tội; tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội quy kết bị cáo Tủa phạm tội và đề nghị phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sư: Bị cáo không phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sư, nhân thân: Bị cáo thành khẩn khai báo (khai đầy đủ, đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội), ăn năn hối cải (bị cáo luôn thể hiện sự cắn rứt, dày vò lương tâm, chấp hành tốt nội quy, quy định nhà tạm giữ, tạm giam, mong muốn sửa chữa, cải tạo mình thành người tốt). Do đó, xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo là người dân lao động, người dân tộc thiếu số, sống ở vùng sâu, xa, vùng ba, hộ nghèo, nhận thức pháp luật hạn chế, cụt bàn tay phải, tuổi già, sức khoẻ để lao động hạn chế, cần xem xét giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự nhưng là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, chính quyền địa phương xác định không chấp hành tốt quy định ở địa phương nên cần cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để đảm bảo giáo dục, cải tạo các bị cáo thành người tốt, có ích cho xã hội và cũng nhằm răn đe, phòng ngừa, giáo dục cho hành vi tương tự.

[7] Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, biên bản xác minh tài sản, lời khai của bị cáo tại phiên tòa xác định: bị cáo không có tài sản giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về biện pháp ngăn chặn: áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án; bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 03/6/2020 được xem xét khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

[9] Đối với Lò Văn H và Hà Văn P là người nghiện ma túy, đã mua trái phép Methamphetamine của T, đang cất giữ thì bị bắt quả tang, cả 02 người chưa có tiền án, tiền sự, khối lượng ma tuý không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Cơ quan chức năng đã áp dụng biện xử phạt hành chính là có căn cứ; đối với 02 người đàn ông bán trái phép chất ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không thu thập được tài liệu khác ngoài lời khai của T nên không có cơ sở chứng minh, xử lý theo vụ án.

[10] Vật chứng của vụ án: Cơ quan chức năng đã lấy mẫu giám định 0,44 gam Methamphetamine, không hoàn lại mẫu giám định nên không có cơ sở xử lý.

Hiện đã niêm phong, lưu kho vật chứng: 0,40 gam Methamphetamine, ký hiệu là T thu giữ của Thào A T còn lại là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu và tiêu hủy, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

03 vỏ phong bì niêm phong ban đầu; 08 mảnh nilon màu hồng; 02 mảnh nilon màu trắng và 01 mảnh giấy bạc là vật dụng của bị cáo Tủa đã sử dụng làm phương tiện cất giữ trái phép chất ma tuý, vật chứng không có giá trị nên cần tịch thu và tiêu hủy, căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với số tiền bị cáo T đã bán bán trái phép chất ma túy cho Lò Văn H và Hà Văn P có được tổng cộng 100.000VNĐ là số tiền do phạm tội mà có nên cần phải tịch thu nộp ngân sách Nhà nước, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[11] Về án phí: Tài liệu trong hồ sơ xác định bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng đặc biệt khó khăn, hộ nghèo, tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa cho bị cáo xin miễn nộp tiền án phí; theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo thuộc trường hợp được miễn án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Thào A T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Thào A T 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, giam (03/6/2020); không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về vật chứng:

Tịch thu và tiêu hủy: 0,40 (Không phảy bốn mươi) gam Methamphetamine, ký hiệu là T; 03 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; 08 mảnh nilon màu hồng; 02 mảnh nilon màu trắng và 01 mảnh giấy bạc của Thào A T.

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 100.000VNĐ (Một trăm nghìn đồng) của Thào A T.

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/11/2020 giữa Công an huyện M và Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Sơn La).

4. Về án phí: Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo T.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (25/11/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;